Mỹ yêu cầu Đài Bắc làm rõ ý
nghĩa 'đường lưỡi bò'
![]()
Biểu tình phản đối việc Trung
Quốc đưa giàn khoan vào hoạt động trong vùng biển ngoài khơi Việt Nam.
Các học giả Đài Loan mới đây
cho biết Hoa Kỳ đã yêu cầu chính phủ ở Đài Bắc làm rõ ý nghĩa của đường 11 đoạn
mà Đài Loan vẽ ra năm 1947 và được Trung Quốc dùng để làm cơ sở cho đòi hỏi chủ
quyền ở Biển Đông. Các học giả này nói rằng yêu cầu mà Washington đưa ra 2 lần
trong 3 tháng vừa qua vẫn chưa được thỏa mãn vì chính phủ của Tổng thống Mã Anh
Cửu e rằng việc đó sẽ làm bùng ra một cuộc khủng hoảng chính trị trong nước.
Giữa lúc cuộc đối đầu kịch
liệt giữa Việt Nam và Trung Quốc vì vụ giàn khoan đang tiếp diễn ở Biển Đông,
các học giả Đài Loan cho biết Hoa Kỳ hồi gần đây đã yêu cầu chính phủ của đảo
quốc tự trị này làm rõ ý nghĩa của đường 11 đoạn, thường được gọi là đường lưỡi
bò, mà họ vẽ ra năm 1947 và đang được Trung Quốc sử dụng để khẳng định yêu sách
chủ quyền ở Biển Đông.
![]()
Theo tường thuật của thông
tín viên Hải Nhan của ban Hoa Ngữ đài VOA tại Hồng Kông, việc này được giáo sư
Trần Nhất Tân của Đại học Đạm Giang tiết lộ tại một cuộc hội thảo ở Hồng Kông
về vấn đề Biển Đông hôm 19 tháng 5 vừa qua.
Ông Trần Nhất Tân cho rằng
yêu cầu của Washington đối với Đài Bắc có mục đích làm suy yếu lập trường của
Bắc Kinh đối với đường 9 đoạn mà họ dùng từ năm 1949 để cho rằng hầu như toàn
bộ Biển Đông là lãnh hải của mình.
![]()
Chính phủ Tổng thống Mã Anh
Cửu e rằng việc 'làm rõ ý nghĩa của đường 11 đoạn' sẽ gây ra một cuộc khủng
hoảng chính trị trong nước.
Giáo sư Trần Nhất Tân nói
rằng Đài Loan không thể thỏa mãn yêu cầu của Mỹ vì họ e rằng làm như thế sẽ gây
phương hại cho mối quan hệ hài hòa giữa hai bờ eo biển Đài Loan và tạo ra rất
nhiều vấn đề chính trị vì Đài Loan sẽ phải tu chính hiến pháp.
Ông Tôn Dương Minh, Phó Chủ
tịch Quỹ Viễn cảnh Giao Lưu Đài Loan-Trung Quốc, cũng tán đồng nhận định đó.
Ông nói rằng việc thỏa mãn đòi hỏi mà Hoa Kỳ đã 2 lần đưa ra trong 3 tháng vừa
qua là rất nguy hiểm, vì Đài Loan sẽ phải tu chính hiến pháp, xác định lại
đường biên giới của Trung hoa Dân quốc; và như thế có thể bị diễn giải là một
hành động tuyên bố Đài Loan độc lập trên pháp lý, làm phát sinh rất nhiều vấn
đề chính trị phức tạp.
![]()
Vào cuối năm năm 1947, Trung
Quốc, với quốc hiệu lúc đó là Trung Hoa Dân Quốc và do chính phủ Quốc Dân Đảng
lãnh đạo, đã vẽ đường 11 đoạn trên biển Đông, gọi đó là quốc giới. Tháng 2 năm
1948, bản đồ lưỡi bò xuất hiện công khai lần đầu tiên với bốn nhóm đảo mà Trung
Quốc gọi là Đông Sa, Tây Sa, Trung Sa và Nam Sa. Trong 4 quần đảo này, quần đảo
vốn có tên Nam Sa được đổi thành Trung Sa và quần đảo Đoàn Sa được đổi thành
Nam Sa.
![]()
Việt Nam gọi Tây Sa là Hoàng
Sa và Nam Sa là Trường Sa và cũng dựa trên các yếu tố lịch sử và pháp lý để
tuyên bố thuộc chủ quyền của mình.
Việt Nam gọi Tây Sa là Hoàng
Sa và Nam Sa là Trường Sa và cũng dựa trên các yếu tố lịch sử và pháp lý để
tuyên bố là thuộc chủ quyền của mình.
Trong khi đó, các nước khác ở
Đông Nam Á, trong đó có Philippines, Malaysia, Brunei và mới đây là Indonesia,
cũng có yêu sách chủ quyền đối với các quần đảo mà Trung Quốc gọi là Đông Sa và
Nam Sa.
Từ khi công bố đường lưỡi bò
tới nay, Đài Loan và Trung Quốc chưa bao giờ nói rõ ý nghĩa của ranh giới đó là
gì, dù hai chính phủ ở Đài Bắc và Bắc Kinh đã có nhiều hành động trên thực tế
trong ranh giới này. Theo Bách Khoa Mở Trung Quốc, có 4 cách giải thích về ý
nghĩa pháp lý của đường 9 đoạn: (1) đó là đường ranh giới quốc gia hay quốc
giới: có nghĩa là các đảo và vùng biển bên trong lằn ranh là lãnh thổ của Trung
Quốc và khu vực bên ngoài lằn ranh là thuộc về các nước khác hoặc là hải phận
quốc tế; (2) đó là vùng biển lịch sử: Trung Quốc có quyền lợi lịch sử đối với
tất cả các đảo và vùng biển bên trong lằn ranh; (3) đó lằn ranh trên biển, với
các đảo trong lằn ranh thuộc chủ quyền Trung Quốc và Trung Quốc có quyền chủ
quyền đối với vùng biển và tài nguyên dưới đáy biển không thuộc vùng nội thủy
bên trong lằn ranh; và (4) đó là đường ranh phạm vi các đảo, với các đảo bên
trong lằn ranh và vùng biển lân cận là một phần lãnh thổ Trung Quốc, do Trung
Quốc quản hạt và kiểm soát.
![]()
Chẳng những các nước có tranh
chấp chủ quyền với Trung Quốc và Đài Loan phản đối và bác bỏ đường 9 đoạn,
nhiều nước khác trên thế giới, kể cả Hoa Kỳ, cũng không ngớt Trung Quốc yêu cầu
làm rõ ý nghĩa của đường ranh mà chính các chuyên gia công pháp quốc tế của Bắc
Kinh và Đài Bắc cũng không thống nhất ý kiến với nhau.
Tại một cuộc họp hôm 17 tháng
5 ở Đài Bắc, cựu dân biểu Lâm Trọc Thủy của Đảng Dân Tiến cho biết ngay cả các
học giả về công pháp quốc tế của Quốc Dân Đảng cũng cho rằng các qui định của
luật pháp quốc tế và luật biển hiện nay đều vô cùng bất lợi cho yêu sách về
“vùng biển lịch sử”. Một học giả khác của Trung Quốc, ông Lý Lệnh Hoa, cũng cho
rằng đường chín đoạn không có kinh độ, vĩ độ cụ thể, cũng chẳng có căn cứ pháp
lý.
![]()
Bắc Kinh cho rằng hầu như
toàn bộ Biển Đông là lãnh hải của mình.
Ông Lâm Trọc Thủy, lý thuyết
gia nòng cốt của phong trào đòi Đài Loan tách khỏi Trung Quốc để độc lập, nói
rằng đường lưỡi bò không hề có trong lịch sử Trung Quốc trước đây mà thật ra là
bắt nguồn từ Quần đảo Tân Nam mà Nhật Bản tuyên bố đòi chủ quyền từ năm 1939 và
đặt dưới sự quản hạt của huyện Cao Hùng ở Đài Loan, khi đó là một phần lãnh thổ
của Đế quốc Nhật. Ông Lâm nói rằng sau khi Nhật Bản bị đánh bại trong thế chiến
thứ hai, chính phủ Quốc Dân Đảng của Tưởng Giới Thạch mới thừa hưởng quần đảo
mà Nhật Bản gọi là Shinnangunto và xem đó là vùng biển của Trung Quốc.
Ông Lâm Trọc Thủy cũng cho
rằng Trung Quốc có thể tranh giành chủ quyền quần đảo “Tây Sa” (Hoàng Sa),
nhưng không thể đòi chủ quyền đối với quần đảo “Nam Sa” (Trường Sa); và đó
chính là lý do tại sao Bắc Kinh cực lực phản đối việc Philippines đưa vụ tranh
chấp biển đảo này ra trước tòa án trọng tài quốc tế.
![]()
Cũng tại cuộc họp báo ở Đài
Bắc, một học giả Đài Loan cho rằng chính quyền Tưởng Giới Thạch đã làm bừa khi
đưa quân đến chiếm đảo Thái Bình (Việt Nam gọi là Ba Bình) ở “Nam Sa”. Tiến sĩ
Hứa Văn Đường, thuộc Ban Nghiên cứu Lịch sử Cận đại của Viện Nghiên cứu Trung
ương (Academia Sinica) của Đài Loan, cho biết tại Hòa hội Cựu Kim Sơn năm 1951,
Nhật Bản tuyên bố từ bỏ Shinnangunto nhưng không nói là từ bỏ cho nước nào. Thế
mà Đài Loan vào năm 1956 đã đưa quân đến chiếm hòn đảo “Thái Bình”, nơi mà ông
nói không phải là ngư trường truyền thống của ngư dân Đài Loan.
Ông Hứa Văn Đường cũng tiết
lộ là sau khi Nhật Bản đầu hàng năm 1945, quân đội của Tưởng Giới Thạch đã
“tiện thể” tiếp thu Quần đảo Tân Nam từ tay Nhật Bản, nhưng lại không biết quần
đảo này ở đâu, nên phải chạy tới Bộ Tư lệnh Mỹ ở Philippines để mượn bản đồ.
Nhà sử học Đài Loan này nói rằng nhóm đảo mà Trung Quốc gọi là Nam Sa thật ra
là nằm trong khu vực của nhóm đảo mà hiện nay có tên là Trung Sa.
Duy Ái
Khủng hoảng Việt-Trung: Cơ
hội chuyển đổi
![]()
Giàn khoan dầu của Tổng công
ty dầu khí ngoài khơi quốc gia Trung Quốc CNOOC.
Sự kiện Trung Quốc lập giàn
khoan dầu nước sâu HD-981 trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Việt Nam
đã làm căng thẳng quan hệ hai nước. Tuy nhiên, đây cũng là cơ hội để Việt Nam
bày tỏ thái độ quyết liệt hơn trước sự hung hăng của Trung Quốc và đề ra các
giải pháp cải cách cụ thể nhằm bảo vệ chủ quyền quốc gia.
Ngày 2 tháng Năm vừa qua,
Trung Quốc đã điều hơn 80 tàu thuyền và máy bay yểm trợ để đặt giàn khoan HD-981
do Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Trung Quốc (CNOOC) sở hữu vào bên trong lãnh hải
thuộc chủ quyền của Việt Nam. Có thể đây là chiến lược mà Trung Quốc tiến hành
nhằm trắc nghiệm phản ứng của Việt Nam lẫn cộng đồng quốc tế, đặc biệt là Hoa
Kỳ.
Hoa Kỳ lên tiếng chỉ trích
Trung Quốc “khiêu khích” một cách rất ngoại giao. Trong khi đó, Hiệp hội các
nước Đông Nam Á (ASEAN) đưa ra tuyên bố chung rằng họ “quan ngại nghiêm trọng
trước các diễn biến phức tạp tại khu vực Biển Đông” nhưng không đề cập đích
danh đến Trung Quốc.
![]()
Cảnh sát biển Việt Nam công
bố cho thấy các thủy thủ Việt Nam đứng gần mạn tàu bị rách sau khi bị tàu Trung
Quốc đâm vào, ngày 7/5/2014.
So với cuộc khủng hoảng ở
Syria và Ukraine thì vấn đề Biển Đông vẫn chưa phải là sự kiện cấp bách để gây
sự chú ý hoặc can thiệp của phương Tây. Cho đến thời điểm này, bất chấp phản
ứng từ các nước như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Liên minh châu Âu và Vương quốc Anh
(trong một thông cáo riêng), Trung Quốc vẫn tiếp tục hành vi xâm phạm lãnh hải
của Việt Nam. Thậm chí, Bắc Kinh còn quay sang chỉ trích Hà Nội cố tình khuấy
động bạo lực.
Việc va chạm giữa tàu Trung
Quốc và Việt Nam vừa qua cũng như việc Trung Quốc đưa tàu vào hải cảng Việt Nam
để di tản kiều dân của họ cho thấy tình hình ngày càng trở nên căng thẳng và nghiêm
trọng hơn, đặc biệt khi Trung Quốc gửi hơn cả tàu chiến và không quân để ngang
ngược áp đặt chủ quyền của họ tại khu vực này.
Mặc dù giàn khoan chỉ được
đặt tạm thời cho đến tháng Tám và dùng để đo lường phản ứng của Hà Nội nhưng
tổng thể vụ việc có thể dẫn đến xung đột vũ trang và đe dọa hòa bình trong cả
khu vực.
Trung Quốc toan tính rằng với
“tình đồng chí” giữa hai nước, Việt Nam chỉ lên tiếng chỉ trích chứ không đi xa
vào việc sử dụng vũ lực. Tuy nhiên, các diễn biến ngoài biển có thể khó lường
và bất kỳ một hành động thiếu tính toán nào cũng có thể bùng nổ thành cuộc hải
chiến đẫm máu tương tự như những năm 1974 và 1988.Cơ hội để thay đổi
Mặc dù Việt Nam và Trung Quốc
chia sẻ chung một ý thức hệ nhưng căng thẳng giữa hai nước đã từng xảy ra nhiều
lần trong quá khứ. Các vụ cắt cáp tàu bè và bắt giữ ngư dân Việt Nam do phía
Trung Quốc thực hiện đã nhiều lần minh chứng cho sự lấn áp từ phía Bắc Kinh.
Tuy có những ý kiến cho rằng
Đảng Cộng sản Việt Nam hiện bị chia rẽ trầm trọng giữa nhóm bảo thủ thân Trung
Quốc và những thành phần ủng hộ cải cách hệ thống nhích lại gần với phương Tây,
nhưng trước sự thách thức to lớn liên quan đến toàn vẹn lãnh thổ thì đây là cơ
hội để Việt Nam chứng minh rằng mình là nước đáng tin cậy trong cách xử lý cuộc
khủng hoảng thay vì cục bộ tranh giành sự ảnh hưởng giữa các phe nhóm khác
nhau. Thay vì tiếp tục lo sợ gây mất lòng tin hay thiệt hại giữa mối quan hệ Việt–Trung,
lãnh đạo Việt Nam cần nghĩ về danh dự của cả dân tộc và hành xử quyết liệt vì
rõ ràng đây là hành vi xâm lược trắng trợn.
Các lãnh đạo Việt Nam – mà
thực chất là Đảng Cộng sản Việt Nam – cần học bài học trong quá khứ và dứt
khoát đứng về phía nhân dân, cùng với nhân dân bảo vệ chủ quyền đất nước và
toàn vẹn lãnh thổ thay vì tiếp tục giao hảo cho quyền lợi riêng giữa hai đảng
cộng sản.Chính danh và chủ quyền
![]()
Người Việt xuống đường biểu
tình chống Trung Quốc.
Hàng ngàn người Việt Nam cả
trong lẫn ngoài nước đã lần lượt xuống đường phản đối Trung Quốc xâm lược và
yêu cầu Trung Quốc rút giàn khoan ra khỏi biển Việt Nam. Chính quyền đã cố gắng
bày tỏ thái độ rằng họ không bị lệ thuộc vào Trung Quốc và khuyến khích nhân
dân biểu tình ôn hòa, một phần nhằm xoa dịu sự bất mãn và lòng tin của nhân dân
đối với sự độc quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tuy nhiên, câu hỏi lớn đang
được người dân đặt ra rằng liệu chế độ do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo có đủ
tính chính danh để đại diện cho nhân dân chống giặc ngoại xâm và giành lại chủ
quyền?
Trong những ngày tới, Đảng
Cộng sản Việt Nam sẽ tự tìm thấy họ trong thế tiến thoái lưỡng nan trước vấn đề
Biển Đông. Mặc dù biết rằng cộng đồng quốc tế lên tiếng chỉ trích hành động
ngang ngược của Trung Quốc nhưng vẫn chưa có nước nào lên tiếng ủng hộ Việt
Nam. Cho đến thời điểm này, Việt Nam rất cô độc trong việc đối đầu với Trung
Quốc.
Khác với Philippines và một
số nước khác trong khu vực, Việt Nam có thể là một thành viên của Liên Hiệp
Quốc nhưng vẫn thiếu các đồng minh đáng tin cậy. Chính sách đối ngoại cục bộ
hiện nay do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo đã buộc cả dân tộc phải đối mặt với
những thách thức một cách đơn độc.
Đây là lúc để Việt Nam tiến
hành cải cách để có khả năng bảo vệ chủ quyền hữu hiệu hơn. Việc giao hảo giữa
hai đảng cộng sản chỉ tạo thêm lợi thế để Trung Quốc tiếp tục lấn chiếm lãnh
thổ và biển đảo của Việt Nam. Nhân dân Việt Nam xứng đáng có một chính quyền có
trách nhiệm do người dân chính thức ủy quyền thông qua bầu cử công bằng để đáp ứng
hiệu quả trước các sự kiện như thế này.
Ngoài việc chính quyền đứng
về phía nhân dân để phản ứng quyết liệt trước hành vi xâm lược của Trung Quốc,
Việt Nam nên chính thức đệ đơn kiện Trung Quốc ra toà án quốc tế theo Chương XV
của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển. Giải quyết tranh chấp một cách ôn hòa
và trong phạm vi của luật pháp quốc tế sẽ phần nào giúp hóa giải những gút mắc
cho tất cả các bên có liên quan. Trong trường hợp Việt Nam không thành công
trong việc sử dụng các phương pháp ngoại giao và pháp lý để yêu cầu Trung Quốc
loại bỏ giàn khoan thì câu hỏi đặt ra rằng liệu có nên sử dụng vũ lực?
![]()
Trung Quốc đã, sẽ và luôn là
mối thách thức lớn đối với nền hòa bình của Việt Nam. Việt Nam không thể đứng
nhìn và cũng không thể ngồi chờ Trung Quốc tự rút giàn khoan. Đã đến lúc lãnh
đạo cộng sản Việt Nam nắm bắt cơ hội để thay đổi và thực sự cùng với nhân dân
bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ đất nước.
Khởi động sức mạnh toàn dân
và tình đoàn kết trên dưới một lòng của người Việt trong lẫn ngoài nước là nền
tảng vững chắc cho mục tiêu bảo vệ chủ quyền quốc gia. Và việc này chỉ có thể
thực hiện nếu Việt Nam có một chính quyền chính danh đúng nghĩa và quyền làm
chủ của nhân dân thực sự được đề cao và hiến định.
Vũ Đức Khanh, Võ Tấn Huân
--------------------------------------------------------------------- |
Thứ Tư, 4 tháng 6, 2014
Mỹ yêu cầu Đài Bắc làm rõ ý nghĩa 'đường lưỡi bò'
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét