Học giả Mỹ bày kế đánh quỵ Trung Quốc
Không còn tìm thấy bài
này trên Tiền Phong, nhưng bài đăng lại
của Dân
Trí vẫn còn, nhưng thay chữ đánh quỵ bằng "hạ"
Luttwak đề xuất phương án
gây áp lực địa chính trị chiến lược lên Trung Quốc, đánh quỵ kinh tế của đại
lục đến cấp độ không còn có thể gây ra các mối đe dọa, loại bỏ khả năng Trung
Quốc thống trị thị trường thế giới.
Tác giả người Mỹ, một
chuyên gia trong lĩnh vực chiến lược Edward Luttwak đã phân tích và bày kế
khống chế Trung Quốc trong cuốn "Sự trỗi dậy của Trung Quốc đi ngược logic
chiến lược phát triển" đã đưa ra những phân tích và luận điểm rất đáng chú ý về
Trung Quốc.
Trung Quốc 'quá tự phụ'
Trung Quốc 'quá tự phụ'
E. Luttwak, một chuyên
viên cao cấp tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (Center for
Strategic and International Studies), trên quan điểm cá nhân của mình và cũng
là một quan điểm khá độc đáo trong cuộc tranh luận về làm thế nào để kiềm chế
"nguy cơ Trung Quốc".
Luttwak tin rằng hiện
tượng tăng trưởng địa chính trị của Trung Quốc trên ba vị trí cơ bản - kinh tế,
sức mạnh quân sự và ảnh hưởng chính trị và ngoại giao - không thể tiếp tục mãi
mãi và chắc chắn sẽ gây ra phản ứng từ các nước khác. Những nước này nhận thức
được rằng sự phát triển tiềm lực quốc gia hùng mạnh của Trung Quốc đi cùng với
việc thiết lập quyền kiểm soát và ảnh hưởng - đầu tiên ở châu Á và sau đó là
trên quy mô toàn cầu.
Theo Luttwak, quyết định
đúng đắn nhất của Trung Quốc là tự kiềm chế: Bắc Kinh duy trì một tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao, nhưng loại trừ khả năng tăng cường tương xứng về sức mạnh
quân sự và ảnh hưởng chính trị. Chỉ theo phương án này, Trung Quốc có thể giảm
thiểu những lo ngại của các nước khác và tránh bị đối đầu với một liên minh
phản đối mạnh, tương tự như liên minh chống lại Đức vào đầu thế kỷ 20. Tuy
nhiên, tác giả tin tưởng rằng, đợi cho Trung Quốc có một một tầm nhìn chiến
lược như vậy là không thể.
Theo Luttwak, quyết định
đúng đắn nhất của Trung Quốc là tự kiềm chế: Bắc Kinh duy trì một tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao, nhưng loại trừ khả năng tăng cường tương xứng về sức mạnh
quân sự và ảnh hưởng chính trị. Chỉ theo phương án này, Trung Quốc có thể giảm
thiểu những lo ngại của các nước khác và tránh bị đối đầu với một liên minh
phản đối mạnh, tương tự như liên minh chống lại Đức vào đầu thế kỷ 20. Tuy
nhiên, tác giả tin tưởng rằng, đợi cho Trung Quốc có một một tầm nhìn chiến
lược như vậy là không thể.
Nguyên nhân chính của vấn
đề này – tính tự phụ quá lớn của một siêu cường – tự phụ của một siêu cường
được hiểu như là sự tập trung tối đa cho các công việc nội bộ và không hề quan
tâm đến những gì đang xảy ra bên ngoài biên giới. Tính tự phụ còn được thể hiện
ở trong lĩnh vực đối ngoại, các lãnh đạo hoàn toàn không muốn nghe và không
muốn biết, các nước láng giềng họ nghĩ gì về mình. Căn bệnh tự phụ này là bản
chất của các siêu cường – nước lớn như Mỹ, Nga, Ấn Độ. Nhưng với Trung Quốc, nó
đặc biệt nghiêm trọng.
Trung Quốc đã quá tự phụ
với sức mạnh của mình và say sưa với 'giấc mơ Trung Hoa'. Ảnh: Nhà lãnh đạo Tập
Cận Bình thị sát quân đội sau khi trở thành người đứng đầu nhà nước
Trung Quốc 'quá tự phụ'
Thứ nhất: Chính quyền
Trung Quốc tập trung toàn bộ sự quan tâm của mình đối với những nguy cơ có thể
đe dọa đến nền chuyên chính của giai cấp. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc không có
quá nhiều thời gian và sức lực để nghiên cứu và phân tích những tiến trình phát
triển của thế giới.
Thứ hai: Ảnh hưởng mạnh
mẽ của truyền thống lịch sử - Trung Quốc tự coi mình là nước lớn và là trung
tâm của thế giới, các nước láng giềng quanh đại lục được nhìn nhận như những
nước nhược tiểu. Truyền thống này đã định hướng các mối quan hệ nước ngoài từ
rất lâu và ảnh hưởng trực tiếp đến ngày nay, đồng thời là trở ngại khiến Trung
Quốc không nhìn nhận được các nước khác như các đối tượng bình đẳng trong quan
hệ quốc tế. Mặc dù có một nền văn hóa lâu đời, Trung Quốc rất thiếu kinh nghiệm
trong các mối quan hệ quốc tế - đặc biệt là trong các quan hệ hợp tác hữu nghị
với các nước đối tác trong khu vực.
Thứ ba: Một trong những
ảnh hưởng tai hại đối với các nhà lãnh đạo Trung Quốc là niềm tin vào những lý
luận chiến lược của các học giả Trung Hoa cổ đại, một trong những tác phẩm đó
là “Phép dùng binh” của Tôn Tử. Những bài học lý luận, được trình bày
trong tác phẩm đó được xây dựng trên nền tảng kinh nghiệm của các cuộc chiến
tranh trong nội bộ Trung Quốc (có cùng ngôn ngữ, cùng văn hóa và tư duy chiến
lược), đặc biệt trong thời kỳ “Chiến quốc” (thế kỷ thứ 5 trước CN đến 221
TCN).
Đạt đến giới hạn cuối
cùng của chủ nghĩa thực dụng, luôn có xu hướng thúc đẩy giải quyết vấn đề bằng
cách kích động một cuộc khủng hoảng, các kỹ thuật khác nhau của âm mưu và các
thủ đoạn - những đặc điểm này và các đặc trưng khác của “Binh pháp Tôn tử”
Trung Quốc có thể đạt hiệu quả trong bối cảnh của nền văn minh Trung Hoa, nhưng
thường không đạt hiệu quả trong đối phó với các nền văn hóa và các dân tộc
khác. Bằng chứng cho thấy rằng, huyền thoại về sự ưu việt của tư duy chiến lược
và các chính sách đối nội, đối ngoại của Trung Quốc, tác giả Luttwak tin rằng
thực tế là hơn một thiên niên kỷ, người Hán thực tế (người TQ) trong
triều đại của mình chỉ trị vì có một phần ba thời gian. Các bộ tộc du mục dễ
dàng xâm lược và đánh bại các triều đại Trung Quốc, những người tự hào là có tư
duy "khôn khéo và đầy cơ mưu tầm chiến lược."
Lầu Năm Góc: TQ là 'đối tượng tác chiến số 1'
Sức mạnh ngày càng tăng
của Trung Quốc hiện đại và quan điểm cứng rắn không khoan nhượng của Bắc Kình
về nhiều vấn đề (đặc biệt là trong các tranh chấp ở biển Hoa Đông và Biển Đông)
đã dẫn đến thực tế là chống lại Bắc Kinh bắt đầu hình thành một liên minh không
chính thức, trong đó bao gồm Ấn Độ, Nhật Bản, Úc, Đông Nam Á và các nước Châu Á
-Thái Bình Dương khác. Hoa Kỳ, tất nhiên cũng tham gia vào liên minh và là động
lực mạnh mẽ nhất. Tuy nhiên, Luttwak tin rằng sự hình thành của liên minh này
không có quá nhiều xúi giục từ phía Washington. Những nước tham gia năng động
nhất là nước láng giềng bị o ép của
Trung Quốc.
Chiến hạm Trung Quốc bắt đầu vươn ra Thái Bình Dương, thách thức vị thế thống trị của Mỹ lâu nay.
Trung Quốc đã và đang ráo riết phát triển vũ khí nhằm tiêu diệt các đội tàu sân bay Mỹ.
Trong một quan điểm, Úc
đóng vai trò của một trong những nước khởi xướng và dẫn dắt chính sách ngoại
giao đa phương chống Trung Quốc. Việt Nam là đất nước có lịch sử dân tộc chống
ngoại xâm phương Bắc trong nhiều thế kỷ. Quan điểm phản kháng cũng được Mông Cổ
duy trì quyết liệt và nhận thức được vấn đề không thể duy trì độc lập nếu rơi
vào quỹ đạo ảnh hưởng của Trung Quốc.
Indonesia và Philippines
được Luttwak trích dẫn như là ví dụ về các quốc gia, nửa đầu thập kỷ 1990 đã
sẵn sàng làm bạn với Trung Quốc, nhưng sang đến thập kỷ 2000 đã kiên quyết phản
đối Trung Quốc – mà đó là lỗi của Bắc Kinh, khi cách cư xử của quốc gia này
trên Biển Đông trở nên không thể chấp nhận.
Câu chuyện đối ngoại chính trị tương tự cũng xảy ra với Nhật Bản trong mối quan hệ Trung Nhật. Không lâu lắm, vào khoảng năm 2009, khi đảng Dân chủ Nhật Bản lên nắm quyền, có cảm giác rằng Tokyo đang chuyển hướng dần về phía Trung Quốc và có thể nói là, âm thầm rơi vào tầm ảnh hưởng chiến lược của Trung Quốc. Nhưng những hành động gây căng thẳng do chính Trung Quốc tiến hành ở quần đảo Senkaku và trên biển Hoa Đông – Biển Đông đã gạch chéo lên tất cả mọi kế hoạch hợp tác hữu nghị và đẩy Nhật Bản về mối quan hệ ngày càng chặt chẽ hơn với Mỹ.
Căn cứ tàu ngầm của hải quân PLA ở Hải Nam.
Trung Quốc luôn mơ về các hạm đội viễn dương với các đội tàu sân bay thống trị đại dương như Mỹ.
Và tích cực phát triển 'sát thủ' diệt tàu sân bay DF-21 nhằm đối phó tàu sân bay Mỹ.
Một ngoại lệ trong xu
hướng phản kháng Trung Quốc lại là Hàn Quốc, theo quan điểm của tác giả cuốn
sách này, Hàn Quốc luôn thể hiện “sự phụ thuộc” vào Bắc Kinh. Đã từ lâu Hàn
Quốc đã quá coi trọng nền văn minh Trung Hoa và trên thực tế khá lệ thuộc Trung
Quốc trong lĩnh vực kinh tế. Để duy trì được khả năng tiếp cận nền kinh tế
Trung Quốc, Hàn Quốc đã làm mờ đi những quan hệ còn lại của chính mình. Luttwak
đưa ra một dự đoán cho quan điểm chính trị của Hàn Quốc – đó là giải pháp
"Thoát ly chiến lược", cho rằng không thể xem xét Hàn Quốc là một
đồng minh đáng tin cậy trong liên minh phản kháng Trung Quốc.
Không chỉ riêng đối với
Hàn Quốc, ngay cả chính quyền Mỹ cũng còn xa mới đạt được sự đồng thuận chống
những nguy cơ từ Trung Quốc. Tác giả Luttwak cho rằng, chính sách đối ngoại đối
với Trung Quốc của Mỹ bị ảnh hưởng bởi 3 nhóm lợi ích: nhóm thứ nhất là Bộ Tài
chính, nhóm thứ hai là Bộ Ngoại giao và nhóm thứ ba – Bộ quốc phòng Mỹ.
Bộ Tài chính đại diện cho
nhóm lợi ích của phố Wall. Đối với nhiều tập đoàn kinh tế mạnh của Mỹ, thương
mại với Trung Quốc là một nguồn lợi nhuận vô cùng lớn. Bỏ qua nguồn lợi này,
các tập đoàn không sẵn sàng. Lợi nhuận trong quý tiếp theo của một năm tài chính
quan trọng hơn lợi ích lâu dài của an ninh quốc gia. Vì vậy, Bộ Tài chính luôn
có quan điểm thân thiện với Trung Quốc.
Bộ Ngoại giao, đặc biệt
là trong thời kỳ bà Hillary Clinton không phủ nhận tầm quan trọng hợp tác
thương mại với Bắc Kinh, nhưng nhận định rằng, hầu hết các vấn đề lợi ích của
Mỹ và Trung Quốc luôn luôi đối kháng lẫn nhau. Công bố chính sách đối ngoại của
chính quyền Obama "Trở lại Châu Á - Thái Bình Dương”, theo Luttwak, không
có gì khác hơn một chính sách đối ngoại chính trị nhằm ngăn chặn Trung Quốc.
Chính sách kiềm chế đối
ngoại do Bộ Ngoại giao Mỹ tiến hành, được sự hỗ trợ bởi sức mạnh quân sự của
Lầu Năm Góc. Bộ Quốc phòng Mỹ có quan điểm coi Trung Quốc là "kẻ thù
chính" đồng thời lên kế hoạch tác chiến chiến lược, đưa ra các đơn đặt
hàng vũ khí mới với quan điểm coi Trung Quốc là “đối tượng tác chiến số 1”.
Đánh quỵ bằng đòn phong tỏa
Tuy nhiên, tác giả
Luttwak khẳng định, giải pháp quân sự để giải quyết vấn đề Trung Quốc là không
thể được xét trên mọi góc độ, ngay cả trong trường hợp Quân đội Mỹ có ưu thế
thống trị chiến trường. Trong kỷ nguyên của vũ khí hạt nhân, xung đột vũ trang
giữa hai cường quốc quân sự có thể rất dễ dàng dẫn đến thảm họa toàn cầu.
***Mỹ hoàn toàn có khả năng phong tỏa con đường huyết mạch trên biển của Trung Quốc. Nhưng nếu Trung Quốc duy trì tốt quan hệ chiến lược với Nga thì không có gì bảo đảm chiến lược phong tỏa sẽ thành công.
Từ những quan điểm và
phân tích đánh giá đã nêu. Tác giả Luttwak đưa ra những giải pháp nhằm giải
quyết những nguy cơ từ phía Trung Quốc, mà theo tác giả là rất nghiêm trọng:
Giải pháp nhằm giải quyết
vấn đề nguy cơ Trung Quốc, Luttwak đề xuất phương án gây áp lực địa chính trị
chiến lược lên Trung Quốc, với mục đích làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế của
đại lục đến cấp độ không còn có thể gây ra các mối đe dọa, nhằm cân bằng lực
lượng trên trường thế giới và loại bỏ khả năng Trung Quốc đạt được quyền thống
trị thị trường thế giới. Mục tiêu đó có thể đạt được, nếu chặn được hàng hóa
Trung Quốc trên các thị trường của các đối tác chính. Đồng thời với việc ngăn
chặn khả năng Trung Quốc tiếp cận các tài nguyên khoáng sản và công nghệ, mang
ý nghĩa sống còn với đời sống kinh tế Trung Quốc trong điều kiện hiện nay. Theo
ông Luttwak đã có những dấu hiệu đối kháng đại lục trong lĩnh vực kinh tế: Úc
cấm các công ty Trung Quốc mua các khu tài nguyên và nguyên liệu thô, Argentina
và Brazil đã ra lệnh cấm các doanh nhân Trung Quốc mua các vùng đất đai nông
nghiệp của họ, chính quyền Mỹ không cho phép các công ty Trung Quốc bỏ thầu
trong các hợp đồng mua sắm công, v.v….
Tất nhiên, có thể gọi
giải pháp đó là “phong tỏa kinh tế”, đòi hỏi rất nhiều thời gian, sức lực và
quan hệ ngoại giao. Trong cái gọi là “phong tỏa địa chính trị Trung Hoa” vị trí
then chốt đối với Mỹ lại chính là Nga. Luttwak đã nhận thấy một vấn đề khá rõ
nét: Nếu người Mỹ và các đồng minh của họ tiến hành phong tỏa kinh tế Trung
Quốc, vòng phong tỏa này sẽ không thành hiện thực nếu không có sự tham gia của
Nga và các nước Trung Á, nằm trong tầm ảnh hưởng của Nga. Ngay cả trong trường
hợp cứng rắn hơn, Mỹ phong tỏa quân sự đường biển, Trung Quốc vẫn có thể nhận
được những nguồn nguyên liệu thô, năng lượng từ những đối tác Trung Á và châu Âu
của họ.
Nếu tham gia phong tỏa
kinh tế Trung Quốc có cả Nga và các nước Trung Á, thì nền kinh tế Trung Quốc
sụp đổ. Rõ ràng, trong liên mình đối kháng với Trung Quốc, Moscow đóng vai trò
then chốt chiến lược. Về vấn đề này, nếu Nhật Bản coi như là một thành viên
chống Trung Quốc, ông Luttwak cho rằng Nhật Bản nên bình thường hóa quan hệ với
Nga và có những xem xét mang tính xây dựng cho tuyên bố chủ quyền đối với quần
đảo Nam Kuril: Tranh chấp nhỏ phải nhường cho lợi ích lớn – một liên minh ngăn
chặn Trung Quốc.
Trung Quốc rất cần Nga nhưng Nga chưa chắc đã cần Trung Quốc. Ảnh: Chủ tịch Tập Cận Bình đã chọn Nga là địa chỉ trong chuyến công du nước ngoài đầu tiên sau khi nằm quyền lực tối cao.
Mặc dù không nói ra,
nhưng rõ ràng logic Luttwak đã nhận định vị thế vô cùng quan trọng của Nga
trong mối quan hệ địa chính trị của Trung Quốc trên bản đồ thế giới. Trung Quốc
cần Nga như một đối tác chiến lược sống còn trong khi Nga thì không. Về nguyên
tắc, Nga có thể loại bỏ khả năng hợp tác kinh tế với Trung Quốc, dù có những
tổn thất lợi ích không hề nhỏ. Trung Quốc đứng vị trí hàng đầu trong kinh doanh
thương mại với Nga, nhưng Nga hoàn toàn không mua và không có những lợi ích mang
tính tồn vong từ Trung Quốc. Đối với Trung Quốc, vấn đề thương mại thông suốt
với Nga đóng vai trò sống còn có tính chiến lược trong hiện tại và tương lai.
Lịch sử thế giới đã chứng
minh một chân lý mà Luttwak một lần nữa chứng minh lại: Trước nguy cơ một quốc
gia trở thành một thế lực với những chính sách mang tính áp đặt ảnh hưởng cao,
các quốc gia khác sẽ liên kết lại trong các hoạt động phản kháng hiệu quả.
Trong trường hợp này có Trung Quốc.
Nhưng vấn đề tồn tại ở
điểm, không phải lúc nào logic của sự cân bằng lực lượng cũng có ưu thế trước
một thế lực áp đặt đơn cực. Trong lịch sử quan hệ thế giới không ít những ví dụ
cho thấy, các quốc gia nhỏ hơn không chống lại được quyền lực ảnh hưởng của một
cường quốc – thường là có nguyên nhân quan trọng – không có khả năng tổ chức
được những hoạt động phản kháng tập thể (collective action problem) bản thân
các nước thành viên cũng không có khả năng huy động các nguồn lực trong nước để
đẩy lùi nguy cơ, cũng như sự không có sự chắc chắn về mối nguy hiểm chính đến
từ hướng nào.
Từ góc nhìn của Luttwak
cho thấy: sự trỗi dậy của Trung hoa đại lục trong giai đoạn gần đây đã gây lên
những hoài nghi, lo lắng, và thậm chí sự phản kháng trong nhiều học giả, các
nhà chính trí và các nhà lý luận chiến lược đối ngoại trong nền kinh tế toàn
cầu hiện nay. Giải pháp phong tỏa nền kinh tế Trung Quốc từ một góc độ nào đó,
có thể phản ánh những quan điểm của các chính trị gia phương Tây.
Lịch sử các cuộc đầu
tranh kinh tế - chính trị đương đại sau Đại chiến thế giới lần thứ II cho thấy
những mâu thuẫn đối đầu và sự phát triển mạnh mẽ. Sự trỗi dậy của Trung Quốc có
thể không khác gì hơn như một áp lực địa chính trị buộc các nước trong khu vực
và trên thế giới có một quan điểm, một góc nhìn và sự phát triển mới. Tương tự
như Ấn Độ, trước những áp lực của Trung Quốc trên biên giới và trên Ấn Độ
Dương, Ấn Độ cũng có những giải pháp đáp trả mạnh mẽ, như xây dựng một lực
lượng hải quân hùng mạnh và sẵn sàng cho mọi hoạt động, từ đối ngoại chính trị
đến đấu tranh vũ trang.
Theo Trịnh
Thái Bằng
Tiền phong
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét