NƯỚC ĐẠI VIỆT TA THỜI
TRẦN ĐÃ "THOÁT TRUNG" NHƯ THẾ NÀO?
Theo Tễu
Đào Tiến Thi
Giữa lúc này,
nếu chỉ nghĩ sao đuổi được cái giàn khoan láo xược của Trung Cộng, mà không
nghĩ đến căn nguyên sâu xa của nó, thì dẫu đuổi được cái giàn khoan này lại có
cái giàn khoan khác xuất hiện và nhiều vấn đề rắc rối về kinh tế, chính trị, xã
hội khác nữa cho Việt Nam.Chiến lược “tàm thực” (tằm ăn dâu) của Trung Cộng sẽ
từng bước được thực thi. Sinh mạng dân tộc Việt Nam đã mỏng manh lại ngày càng
thêm mỏng manh.
Cho nên cách
đặt vấn đề của Quỹ Phan Châu Trinh trong hội thảo ngày 5-6-2014 “Làm thế nào để
thoát Trung?” là rất trúng và đúng. Chỉ có thoát Trung thì đất nước mới phát
triển, và đất nước có phát triển thì mới có độc lập thực sự. Và cũng chỉ có
thoát Trung – thoát khỏi thân phận con tin – thì cũng mới có tình hữu nghị Việt
– Trung đích thực.
Trước khi bàn
vào vấn đề, xin lưu ý một điểm: nhiều bạn trẻ hiện nay cứ tưởng Việt Nam đã bị
trói vào Trung Cộng từ thời hai nước theo chế độ cộng sản. Sự thực cái dây trói
hiện nay là trói lần thứ hai. Chứ trước hội nghị Thành Đô (ngày 3 và 4-9-1990)
về “bình thường hoá quan hệ” giữa hai nước, trong một khoảng thời gian dài 12
năm (1978 – 1990), tức là từ khi nhà cầm quyền Trung Cộng gây ra vụ “Nạn kiều”
vu cáo Việt Nam “khủng bố, bài xích, xua đuổi người Hoa” tháng 4-1978 cho đến
trận Trung Cộng đánh chiếm Gạc Ma của Việt Nam tháng 3-1988, chúng ta chẳng còn
phải dính líu, nợ nần gì với Trung Cộng cả. Trong suốt thời gian nói trên hai
nước đã là kẻ thù không đội trời chung của nhau. Ngoài cuộc chiến tranh biên
giới 2-1979 với 60 vạn quân Trung Cộng tham gia còn có cuộc tranh giành đẫm máu
cao điểm 1509 (Lão Sơn) từ 2-1984 – 7-1984 và vô vàn cuộc xung đột nhỏ trên biên
giới Trung – Việt. Ấy là chưa kể những năm này hai nước không ngày nào không
chửi nhau trên sóng phát thanh. Có năm Tết (theo trí nhớ của tôi là năm 1987),
khó mà nghe được đài tiếng nói Việt Nam trên làn sóng trung bình, vì đài phát
thanh Bắc Kinh phát đúng vào tần số của đài tiếng nói Việt Nam, mà sóng của họ
lại mạnh hơn. Riêng Trung Cộng còn có hệ thống loa đặt dọc biên giới, chửi Việt
Nam ra rả suốt ngày.
Để “thoát
Trung”, chúng ta có hai cách (và nên dùng cả hai cách):
- Tiếp nhận
những giá trị hiện đại của văn minh nhân loại.
- Học tập
những kinh nghiệm trong truyền thống của cha ông.
Bài này đi
vào một phần của cách thứ hai: việc “thoát Trung” thời Trần.
Ta thường nói
Đại Việt thời Trần ba lần đánh tan quân xâm lược Mông – Nguyên, đó là cách nói
tắt; nói chính xác, lần thứ nhất (1258) là đánh thắng đế quốc Mông Cổ và hai
lần sau (1285,1288), đánh thắng đế quốc Nguyên. Triều Nguyên là một “mảnh vỡ”
của đế quốc Mông Cổ, thiết lập ở Trung Quốc sau khi Hốt Tất Liệt (Khubilai)
đánh thắng triều Tống. Triều Nguyên cai trị Trung Quốc từ 1271 đến 1368, bị
Trung Quốc hoá, hoàn toàn trở thành một triều đại của phong kiến Trung Quốc,
được tính vào lịch sử Trung Quốc chứ không phải vào lịch sử Mông Cổ. Triều
Nguyên áp sát ta gần 100 năm. Việc thoát Trung thời Trần chủ yếu là “thoát
Nguyên”.
Có thể nói
luôn: ông cha ta thời Trần không bao giờ tự trói mình với nhà Nguyên và còn
luôn tìm cách tránh không để nhà Nguyên lừa trói nhà nước Đại Việt .
Nếu không kể
việc ba lần đánh cho giặc Mông Nguyên tơi bời thì việc “thoát Trung” của nhà
Trần (cũng như ngày nay) gồm hai mặt: nội trị và ngoại giao. Để đáp ứng nhu cầu
nóng bỏng những ngày này, xin trình bày phần ngoại giao trước.
I- CHÍNH SÁCH NGOẠI GIAO
1. Song hành
giữa cứng rắn và mềm dẻo
Vào lúc nhà
Trần thiết lập thì trên thảo nguyên Trung Á mênh mông cũng xuất hiện một đế
quốc hùng mạnh và hung hãn vào bậc nhất lịch sử nhân loại: đế quốc Mông Cổ.
Ngay từ đầu thế kỷ XIII, quân Mông Cổ đã tấn công các nước Kim, Tây Hạ (bắc và
tây Bắc Trung Quốc ngày nay) và hàng loạt quốc gia ở Trung Á. Năm 1252, quân
Mông Cổ tấn công và tiêu diệt nước Đại Lý (vùng Tứ Xuyên, Vân Nam của Trung
Quốc ngày nay, trong đó Vân Nam liền biên giới với Đại Việt. Cuối năm 1257,
tướng Mông Cổ là Ngột Lương Hợp Thai (Uriangkhadai), viên tướng đã từng chinh
chiến ở các nước Liêu, Ba Tư, Ba Lan, Hungary, được coi là bách chiến bách
thắng, đưa thư dụ hàng Đại Việt.
Trước thế
hung hãn của giặc, nhà Trần chẳng những không đầu hàng mà còn bắt giam sứ giả
để tỏ rõ quyết tâm chống giặc. Khi quân Mông Cổ tràn vào Thăng Long thì thấy ba
tên sứ giả vẫn đang bị trói giam trong ngục và một tên đã chết.
Trong khoảng
từ 1258 – 1285, trước khi bước vào cuộc kháng chiến lần thứ hai, là thời kỳ đấu
tranh ngoại giao. Giai đoạn đầu, quân Mông Cổ rút hết về nước để tham gia cuộc
nội chiến nên giả vờ giao hảo với nước ta. Thư của Hốt Tất Liệt năm 1261 viết:
“Phàm mũ áo, điển lễ phong tục cứ theo chế độ cũ của nước mình, không phải thay
đổi”. Hoặc: “Ta đã cấm các biên tướng Vân Nam không được xâm phạm bờ cõi, quấy
nhiễu nhân dân”. (Nghe cứ na ná như là
“mười sáu chữ vàng”!)
Vua tôi nhà
Trần không hề tin vào những lời lẽ trên, cũng không tự cao vì mới chiến
thắng, nên đã gấp rút tuyển quân, chế tạo vũ khí, sắm chiến thuyền và luyện quân
để đề phòng quân giặc quay trở lại. Trong khoảng gần 30 năm hoà hoãn, không lúc
nào buông lơi cảnh giác.
Từ 1267, quan
hệ với Mông Cổ căng thẳng dần, đặc biệt từ 1271, khi triều Nguyên được thành
lập ở Trung Quốc. Nhà Nguyên đưa ra rất nhiều yêu sách mà nếu thực hiện đầy đủ
thì đồng nghĩa với việc nộp dần nền độc lập. Nhưng để tránh đụng đầu sớm với kẻ
thù, vua Trần một mặt nhân nhượng những gì có thể, mặt khác kiên quyết từ chối
những đòi hỏi quá đáng của vua Nguyên. Sách Khâm định Việt sử thông giám cương
mục ghi lại khá nhiều sự việc ứng phó khôn ngoan của vua quan nhà Trần. Ví dụ
vua Trần nhận sắc phong “An Nam quốc vương” của vua Nguyên, chứ không chịu lạy
chiếu thư của vua Nguyên Hốt Tất Liệt. Thư phúc đáp của vua Trần viết: “Sứ thần
không nên làm lễ ngang hàng với một nước. Vả lại, trước đây thiên triều đã có
việc dụ cho mọi việc trong nước tôi cứ theo tục cũ của bản quốc. Thế thì việc
nhận chiếu chỉ của thiên triều đem kính để tại chính điện, còn vua thì lui
xuống nhà riêng, đấy là điển cũ của nước tôi đấy”.
Tháng 4-1272,
nhà Nguyên sai sứ sang hỏi mốc giới cột đồng trụ ngày trước. Vua Trần cũng giả
vờ sai Lê Kính Phu đi xem xét xét lại. Kính Phu tâu: “Chỗ cột đồng do Mã Viện
dựng lên lâu ngày bị chìm lấp, nay không thể biết ở chỗ nào được”. Từ đó về sau
vua Nguyên cũng không hỏi đến nữa.
Vua Trần cũng
luôn lấy cớ “có bệnh” để không bao giờ sang chầu vua Nguyên. Chịu cống nạp phẩm
vật (bạc vàng, ngọc lụa) chứ không cống nạp nho sỹ, thầy thuốc và thợ thủ công.
Chịu phận làm “tôi” nhưng không cung cấp gạo cho quân Nguyên khi quân Nguyên đi
đánh Champa. Nhà Trần không cấm các thương gia người Hồi Hột (Uyghur/ Duy Ngô
Nhĩ) vào buôn bán nhưng cấm dân ta không được giao dịch với bọn này để cô lập
chúng, khiến chúng không có đất để hoạt động gián điệp trên đất nước ta. Và khi
cần thì nhà Trần tìm cách khống chế bọn này, không cho chúng về nước để cung
cấp tin tức. Nhà Trần còn tìm cách mua chuộc các đạt lỗ hoa xích (chức quan giám
sát của nhà Nguyên đặt ở nước ta) và các quan lại Mông Cổ cai trị vùng Vân Nam,
không để chúng can thiệp vào các chính sách của Đại Việt.
2. Thiết lập
liên minh Việt – Chăm chống xâm lược.
Champa (Chăm
hay Chiêm Thành) là một nước phía nam Đại Việt, biên giới cho đến hồi cuối thế
kỷ XIII là khoảng phía bắc tỉnh Quảng Trị này nay.
Thời chống
Tống dưới triều Lý, trước kế hoạch xâm lược của nhà Tống, trong đó có việc lôi
kéo Champa tấn công từ phía Nam, Lý Thánh Tông thân chinh (cùng đại tướng Lý
Thường Kiệt) đánh Champa, phá tan lực
lượng quân sự của Champa, bắt sống vua Chăm. Sau đó vua Chăm phải dâng đất Bố
Chính, Ma linh, Địa Lý (nam Quảng Bình và bắc Quảng Trị ngày nay) để được trả
về. Từ nửa sau thế kỷ XII, nhà Lý đi vào con đường suy bại, vua Chăm thường cho
quân ra cướp bóc miền biên giới và ven biển phía Nam cùng yêu sách đòi lại đất
cũ.
Vào đầu đời
Trần, vua Chăm là Jaya Paramesvaravarman (ở ngôi 1220 – 1250) vẫn giữ thái độ kỳ
thị Đại Việt, thân thiện Chân Lạp. Năm 1252, vua Trần Thái Tông đem quân đánh
Champa, hạ kinh đô, bắt tù binh rồi rút quân về. Em Jaya Paramesvaravarman lên
kế ngôi, miễn cưỡng cống nạp Đại Việt. Năm 1265, Indravarman IV lên ngôi. Ông
bỏ Chân Lạp đang suy thoái, quay sang thân thiện với Đại Việt đang trên đà hưng
thịnh.
Đầu năm 1280,
sau khi chiếm xong đất Trung Quốc, Hốt Tất Liệt tiếp tục bành trước về phương
Nam. Nhưng vì đã từng thua Đại Việt hồi 1258 nên lần này Hốt Tất Liệt tính
đánh Champa trước nhằm tạo bàn đạp tấn công Đại Việt và các nước Đông Nam Á. Nhà
Nguyên bắt vua Trần cho mượn đường tiến đánh Chăm, nhưng vua Trần cự tuyệt. Vua
Nguyên lại đòi vua Chăm sang chầu nhưng vua Chăm cũng không đi.
Tháng
12-1282, quân Nguyên do Toa Đô chỉ huy tấn công thành Quy Nhơn. Quân Chăm nhờ
có sự chuẩn bị kĩ, đặc biệt có thành gỗ và máy bắn đá, đã đánh trả quyết liệt.
Nhưng trước hoả lực mạnh của quân Nguyên, giữa tháng 2-1283, thành vỡ. Tuy
nhiên, vua Chăm rút quân lên miền rừng núi, tiếp tục kháng chiến.
Quân Nguyên
tấn công thành Đồ Bàn (Bình Định) là kinh đô của Champa lúc bấy giờ. Quân Chăm
bỏ thành, rút lên vùng rừng núi, đồng thời cầu cứu Đại Việt. Nhà Trần cho 2 vạn
quân và 500 chiến thuyền vào giúp Champa.
Giữa năm
1283, vua Nguyên sai A Lý Hải Nha (Arickhaya) chỉ huy 3 vạn quân tăng viện cho
Toa Đô đồng thời lại bắt vua Trần cung cấp lương thực và cho mượn đường qua Đại
Việt nhưng nhà Trần vẫn từ chối. Quân Nguyên buộc phải đi đường biển để vào
Champa do đó rất chậm. Chờ mãi viện binh chưa đến, lại bị quân Chăm tấn công,
Toa Đô buộc phải lui quân ra phía bắc Champa, giáp biên giới Đại Việt để chờ
quân tiếp viện. Tại đây, quân Toa Đô tiếp tục bị quân Champa bao vây, cô lập.
Đầu năm 1285,
quân Nguyên do Thoát Hoan chỉ huy tiến đánh Đại Việt. Toa Đô rút một bộ phận
đánh ra Thanh Hoá nhằm hội với quân Thoát Hoan. Bộ phận còn lại tiếp tục đóng ở
đây nhưng đến khi quân Nguyên thua ở Đại Việt thì cũng phải rút nốt.
Như vậy cuộc
kháng chiến của Champa (có sự trợ sức của Đại Việt) đã góp phần trì hoãn cuộc
tiến công của quân Nguyên vào Đại Việt và đến lượt mình, cuộc kháng chiến của
Đại Việt lại góp phần giải phóng hoàn toàn Champa.
Trong cuộc
kháng chiến lần hai và ba, ngoài liên minh với Champa cũng cần kể thêm ở
đây, còn có 1200 quân phủ Tư Minh (Quảng tây) không chịu khuất phục quân Nguyên,
sang quy phục nước ta và được nhà Trần chấp nhận (1283).
Mối liên minh
Việt – Chăm trong chống xâm lược Nguyên còn tạo tiền đề cho quan hệ hữu nghị
giữa hai nước về sau. Năm 1301, nhân có sứ bộ Champa từ Đại Việt về nước,
Thượng hoàng Trần Nhân Tông đã sang chơi Champa – một cuộc viếng thăm thân mật,
không chính thức – kéo dài tám tháng liền (tháng 3-1301 – tháng 11-1301). Chính
trong cuộc viếng thăm này, Trần Nhân Tông đã hứa gả công chúa Huyền Trân cho
vua Chế Mân. Năm 1306, lễ cưới được tổ chức. Sính lễ gồm rất nhiều vàng bạc và
đất đai hai châu Ô, Lý (nam Quảng Trị và Thừa Thiên – Huế ngày nay). Ngay năm
sau nhà Trần cho sáp nhập hai châu này vào Đại Việt với tên gọi Thuận và Hoá
(Thuận Châu, Hoá Châu).
II- CHÍNH SÁCH NỘI
TRỊ
Giống như
bất cứ sự tranh đoạt quyền lực nào trong chế độ phong kiến, nhà Trần
đoạt ngôi nhà Lý cũng bằng nhiều thủ đoạn và không thiếu những thủ đoạn xảo
quyệt. Tuy nhiên, khi đã có thiên hạ trong tay, nhà Trần, ngay từ buổi đầu, đã
biết xây dựng một thiết chế chính trị – xã hội hợp lý, không chỉ để
củng cố vương quyền mà còn chuẩn bị đối phó với nguy cơ từ phương
Bắc. Bởi vì lúc này đế quốc Mông Cổ đang tung vó ngựa trên thảo
nguyên Trung Á. Quân Mông Cổ lần lượt tiêu diệt các nước Tây Hạ (miền
bắc Trung Quốc, gồm cả Bắc Kinh, 1227), Kim (miền trung Trung Quốc,
1234) và sau đó tấn công Nam Tống (1236), Đại Lý (vùng Vân Nam, Tứ
Xuyên, 1252) là những nước láng giềng của Đại Việt.
Có thế
thấy ba trụ cột làm cho đất nước Đại Việt đời Trần vững mạnh, đó
là:
– Xây dựng
một nhà nước giàu tính pháp quyền.
– Xây dựng
một nhà nước và xã hội giàu tính dân chủ.
– Xây dựng
một xã hội giàu tính khoan dung.
Xin lưu ý,
chúng tôi dùng chữ “tính” đi kèm các chữ pháp quyền, dân chủ, khoan
dung để phân biệt với thiết chế đích thực của nó trong xã hội hiện
đại. Thiết chế nhà nước Đại Việt trong thời gian thịnh đạt của nhà
Trần chưa phải là thiết chế dân chủ, pháp quyền,… nhưng nó có tính
chất ấy; không những có mà còn giàu tính chất ấy.
1. Xây dựng
một nhà nước giàu tính pháp quyền
Như bất kỳ
một triều đại phong kiến nào, nhà nước đời Trần trước hết là nhà
nước của một dòng họ (chế độ hoàng tộc). Nhưng các vua và các bề
tôi trụ cột của nhà Trần không lạm dụng quyền lực của dòng họ cầm
quyền; trái lại, tìm cách kiểm soát, khống chế và cân bằng quyền lực
ấy. Ví dụ:
a) Không tập
trung quá nhiều quyền lực cho một người hay một bộ phận. Vua thì có hai vua
(vua con đương nhiệm và vua cha làm thái thượng hoàng). Thông thường, quyết
định việc lớn trên cơ sở hai vua “đồng
thuận”, vua này không lấn quyền vua kia. Triều đình bao gồm bên trên là
trung khu (phụ trách các cơ quan chức năng) và bên dưới là các cơ quan
chức năng. Trung khu gồm tam thái (thái sư, thái uý, thái bảo), tam thiếu
(thiếu sư, thiếu uý, thiếu bảo), tam tư (tư đồ, tư mã, tư không). Các cơ quan
chức năng gồm các bộ (bộ lại, bộ hộ, bộ lễ, bộ binh, bộ hình, bộ
công). Trần Quốc Tuấn là quốc công tiết chế, đứng đầu quân đội nhưng
mặt khác vẫn dưới Trần Quang Khải, là thái sư.
b) Rất chú
trọng cơ quan thanh tra, giám sát. Từ trung ương đến các phủ lộ đều có cơ quan
xét xử riêng; chỉ ở châu, huyện thì tri châu, tri huyện mới kiêm hành chính và
tư pháp. Trần Thủ Độ thường đi về các địa phương xét duyệt hộ khẩu,
chọn người làm các chức dịch trong làng xã.
c) Nhà nước
tạo điều kiện cho “dân oan” được kêu oan. Trần Phu, sứ giả nhà Nguyên có ghi
lại: “Trong nước có một cái lầu, trong đặt quả chuông lớn, dân chúng ai có kêu
ca, tố cáo việc gì thì đến đánh vào chuông”.
d) Các quan
lại, dù là ruột thịt trong gia đình hay dòng tộc, nếu mắc tội, nhất là tội
phản quốc, đều bị trừng trị rất nặng. Trần Kiện đầu hàng quân Nguyên bị
Nguyễn Địa Lô bắn chết. Trần Ích Tắc vì chạy theo giặc Nguyên mà bị loại ra
khỏi tông thất, bắt đổi tên thành Ả Trần (ngụ ý coi như đàn bà).
e) Bản thân
vua và quý tộc cấp cao gương mẫu thực thi luật pháp và gia pháp. Thượng hoàng
Trần Nhân Tông từng phạt vua Trần Anh Tông về tội say rượu. Chuyện kể rằng
Thượng hoàng Trần Nhân Tông từ phủ Thiên Trường lên kinh sư, thấy vua Trần Anh
Tông say rượu không ra tiếp được, liền quay về. Anh Tông sợ hãi, phải tức tốc
về phủ Thiên Trường dâng biểu tạ tội. Thượng hoàng Trần Nhân Tông nói: “Trẫm
còn có con khác, cũng có thể nối ngôi được. Trẫm đang sống mà ngươi còn như
thế, huống chi sau này?”.
Trần Thủ Độ,
vị tể tướng có vai trò tạo lập và làm rường cột triều Trần trong buổi đầu,
quyền hơn cả vua, lại là một người khẳng khái, liêm chính, thượng tôn phép
nước. Dưới đây là một vài câu chuyện ghi trong Đại Việt sử ký toàn thư:
– Có người thấy ông có nhiều quyền uy trong
triều, liền gặp Thái Tông tâu rằng: “Bệ hạ còn trẻ mà Thủ Độ quyền át cả vua,
xã tắc rồi sẽ ra sao?”. Thái Tông lập tức đưa người ấy đến dinh Thủ Độ, nói hết
những lời người ấy nói cho Thủ Độ nghe. Thủ Độ trả lời: “Đúng như những lời hắn
nói”. Rồi lấy tiền, lụa thưởng cho người ấy.
– Khi bà Linh Từ Quốc Mẫu, vợ ông, xin ông cho
một người chức câu đương, ông nhận lời. Đến lúc xét, ông gọi người ấy lên bảo:
“Ngươi vì có công chúa xin cho được làm câu đương nên không thể so với người
câu đương khác được, phải chặt một ngón chân để phân biệt”. Người ấy sợ quá xin
mãi mới được tha. Từ ấy không ai dám đến nhà riêng xin xỏ nữa.
– Một lần Linh Từ Quốc Mẫu ngang nhiên ngồi
kiệu đi qua cung cấm liền bị một người lính chạy cờ ngăn lại. Bà trở về nhà
thuật lại và khóc: “Mụ này là vợ ông mà bị lũ quân hiệu khinh nhờn như vậy!”.
Trần Thủ Độ gọi người lính chạy cờ về hỏi. Sau khi nghe người này trình bày,
ông cười nói: “Ngươi ở dưới cấp thấp mà biết giữ phép nước, ta còn trách gì
nữa”, rồi ban thưởng cho người này.
– Khi vua Trần Thái Tông muốn đưa anh trai của
Trần Thủ Độ lên làm tướng, Thủ Độ nói: “An Quốc là anh tôi, nếu là người hiền
thì tôi xin nghỉ việc; còn nếu cho tôi là hiền hơn An Quốc thì không nên cử An
Quốc. Hai anh em cùng làm tướng thì việc trong triều đình sẽ ra sao?”.
2. Xây dựng
một nhà nước và xã hội giàu tính dân chủ
a) Quan hệ
hoà thuận trong nội bộ vương triều
Vua Trần
Thánh Tông từng nói với họ hàng: “Thiên hạ là thiên hạ của tổ tông, người nối
nghiệp của tổ tông nên cùng với anh em trong họ cùng hưởng phú quý. Tuy bên
ngoài là cả thiên hạ phụng sự một người nhưng bên trong ta cùng các khanh là
đồng bào ruột thịt, lo thì cùng lo, vui thì cùng vui. Các khanh nên lấy câu ấy
mà truyền cho con cháu để nhớ lâu đừng quên. Thế là phúc muôn năm của tông miếu
xã tắc vậy” (Đại Việt Sử ký toàn thư). Có nhiều sự kiện, câu chuyện cảm
động cho thấy lời nói trên của vua Trần Thánh Tông đã trở thành hiện
thực, ví dụ:
– Hình ảnh hội nghị Bình Than (cuối 1284) tập
trung tất cả các vương hầu, quý tộc để thể hiện quyết tâm đánh giặc, là
hình ảnh dấn thân của cả một dòng họ cầm quyền vào lúc đất nước lâm nguy.
Trần Quốc Toản mới 16 tuổi cũng tự tổ chức một đội gia binh hàng
nghìn người tham gia đánh giặc và hy sinh anh dũng.
– Trần Khánh Dư bị tội[1] đày ra Vân Đồn,
phải làm nghề bán than kiếm sống nhưng vua Trần vẫn không quên. Biết
ông am hiểu vùng đất Vân Đồn, cho nên vào cuộc kháng chiến lần thứ
ba, vua ban chức và giao cho việc chặn đánh đoàn thuyền tải lương
khổng lồ của quân Nguyên. Trận đánh thắng lợi rực rỡ. Mất lương
thực, quân Nguyên rơi vào bế tắc, tạo điều kiện cho quân ta phản công
thắng lợi.
– Những cuộc hoà giải giữa hai anh em
Trần Liễu và Trần Thánh Tông, giữa hai vị tướng Trần Quốc Tuấn và
Trần Quang Khải, đặc biệt là vị tổng chỉ huy quân đội Trần Quốc
Tuấn đặt nghĩa nước lên trên thù nhà (theo lời dặn của cha), không
những tránh được các cuộc cốt nhục tương tàn trong vương triều mà
còn tránh đại hoạ nội chiến cho cả quốc gia. Những chuyện này nhiều
người biết nên không cần kể ở đây.
b) Chính sách
an dân và thân dân của triều đình
Bất cứ
chính thể nào cũng tìm cách an dân. Có những chính thể “an dân” bằng
sắt máu, bằng cách làm cho dân sợ hãi mà phục tùng. Có chính thể
“an dân” bằng những lời hứa, bằng sự lừa gạt. Tất cả những cách đó
không bền lâu. Vua tôi nhà Trần an dân bằng sự đồng thuận và khoan thư
sức dân.
Trần Quốc
Tuấn trước khi mất dặn vua Trần Anh Tông về kế sách giữ nước: “Vua tôi đồng
lòng, anh em hòa thuận, cả nước góp sức (…) khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ
bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy”.
Chính sách
ruộng đất và thuỷ lợi là hai việc làm nổi bật của triều Trần trong việc an
dân.
Trên cơ sở
chế độ sở hữu ruộng đất từ thời Lý, nhà Trần đã củng cố, cải tiến một cách hợp
lý sao cho tất cả các tầng lớp, từ quý tộc đến nông dân, từ người có ruộng đến
người không có ruộng đều được hưởng lợi. Ruộng đất thời Trần rất đa dạng về sở
hữu, đại để có các loại:
xây lăng tẩm
và lấy quỹ cho việc thờ phụng), tịch điền (ruộng riêng của cung đình), quốc khố
(không rõ phương thức quản lý) và ruộng đất công của làng xã (quan điền) do
các làng xã tự quản lý, chia đều cho nhân đinh trong làng.
– Ruộng đất tư nhân gồm thái ấp (phong cho quý
tộc Trần) lấy từ đất công hoặc đất hoang do nhà nước quản lý và điền
trang là đất mới do khai hoang. Các vương hầu, công chúa, phò mã thường chiêu
tập dân ly tán đi khai khẩn đất hoang. Công việc này càng được đẩy mạnh trong
thời gian chuẩn bị chiến tranh chống xâm lược.
Ngoài ra
còn có ruộng đất tư của địa chủ. Nhà Trần có chính sách bán ruộng
công, giúp cho việc hình thành tầng lớp địa chủ và tiểu nông tư hữu.
Vào những lúc chiến tranh, triều đình khuyến khích nhà giàu nộp
thóc cho triều đình. Ai nộp nhiều được phong chức “giả lang tướng”.
Nhà Trần
được mệnh danh là “triều đại đắp đê” vì đặc biệt chú trọng đê điều
và có những thành tựu kỳ vĩ về việc đắp đê. Một đất nước sống
bằng nông nghiệp lúa nước nhưng lại luôn bị lũ lụt đe doạ thì luôn
cận kề với cái đói, và đói kém thì sinh ra loạn lạc. Cho nên nhà
Trần ý thức sâu sắc vai trò của đê điều, không những bảo vệ mùa màng,
tài sản và tính mạng cho nhân dân mà còn giữ cho cuộc sống được ổn
định lâu dài. Thời Trần, nhà nước trực tiếp tổ chức đắp đê và có
cơ quan chuyên trách về đê điều. Đê điều của nhà nước nếu phải dùng
đến ruộng đất tư thì phải đền bằng tiền[2]. Trên các sông lớn miền
Bắc và Thanh, Nghệ đều có đê. Khác hẳn đê thời Lý mang tính cục bộ,
có khi lợi vùng này mà hại vùng kia, đê thời Trần mang tính hệ
thống, đem lại lợi ích chung cho toàn vùng. Đê được tu bổ, tôn cao thêm
hằng năm. Khi có lụt thì kể cả con em quý tộc, học sinh Quốc Tử
Giám cũng phải tham gia. Vua Trần Minh Tông từng thân đi hộ đê. Có quan
ngự sử can: “Bệ hạ nên sửa sang đức chính, đắp đê là việc nhỏ, đi
xem làm gì”. Nhưng Trần Khắc Chung nói: “Phàm dân gặp nạn lụt, người
làm vua phải lo cấp cứu, cho sửa đức cũng không gì bằng việc
ấy”.
Các vua
Trần thường là những người có học vấn cao, tính nết khoan hoà, yêu
thương muôn dân. Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục (từ đây
gọi tắt là Cương mục) viết về Trần Nhân Tông: “Mỗi khi nhà vua đi chơi
đâu, trông thấy gia đồng các vương hầu ở ngoài đường tất gọi rõ tên
và hỏi: “Chủ mi làm gì?”. Nhà vua thường răn vệ sỹ không được quát
mắng gia đồng. Lại bảo với hầu cận rằng: “Ngày thường thì bao nhiêu
người hầu hạ xung quanh, đến khi nước nhà gặp hoạn nạn thì chỉ thấy
có bọn ấy thôi”.
3. Xây dựng
một xã hội giàu tính khoan dung
Từ điển
tiếng Việt định nghĩa khoan dung là “rộng lượng tha thứ cho người
dưới có lỗi”. Định nghĩa này thiếu sót, chính xác là mới được một
nửa nghĩa, nghĩa của từ tố khoan, mà quên mất nghĩa của từ tố dung.
Dung ở đây là “chứa”, như trong dung hoà, dung nạp, tức là nhân nhượng,
chấp nhận lẫn nhau, kể cả sự khác biệt, đối lập. Chúng tôi dùng
chữ khoan dung để chỉ tính chất xã hội thời Trần vì mấy hiện tượng
sau đây.
a) Tam giáo
đồng nguyên
Thông thường
chế độ quân chủ chỉ chấp nhận một hệ tư tưởng làm chính thống. Thế
nhưng thời Trần lại tồn tại trạng thái mà đời sau gọi là “tam giáo
đồng nguyên”: Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo cùng tồn tại.
Nhìn bề
ngoài thì các tôn giáo trên “chọi nhau”. Nho chủ trương “trị quốc,
bình thiên hạ”, Phật lại lánh đời, còn Đạo chủ trương “vô vi” (sống
theo lẽ tự nhiên, không can thiệp vào tự nhiên), vậy lý do nào để nhà
Trần chấp nhận cả ba? Điều này để các nhà nghiên cứu lý giải, còn
chúng tôi chỉ nghĩ đơn giản: một khi biết đặt lợi ích quốc gia lên
trên hết thì họ biết tận dụng cái hay của mỗi tôn giáo và cũng
nhận thấy chẳng tôn giáo nào đủ dùng cho tất cả [3]. Các nhà vua
– đồng thời là những anh hùng như
Trần Thái Tông (lãnh đạo cuộc kháng chiến lần thứ nhất, 1258), Trần
Thánh Tông, Trần Nhân Tông (hai cha con cùng lãnh đạo cuộc kháng chiến
lần hai và ba, 1285, 1288) đều là những người say mê đạo Phật, sau khi
thắng giặc ngoại xâm đều nhường ngôi cho con để nghiên cứu Phật giáo
và đi tu. Các vua Trần yêu cầu quan lại phải tinh thông cả ba tôn giáo
trên và thường mở các kỳ thi tam giáo để chọn quan lại. “Đời Lý,
Trần đều chuộng Phật giáo và Đạo giáo, cho nên buổi ấy chọn người
muốn được thông cả hai giáo ấy, dù là chính đạo hay dị đoan đều tôn
trọng, không phân biệt mà học trò đi thi nếu không học rộng biết
nhiều thì cũng không đỗ được” (Phan Huy Chú).
b) Tinh thần
khuyến học cởi mở
Để khuyến
khích việc học cho vùng xa xôi, có những giai đoạn nhà Trần lấy đỗ
hai trạng nguyên, một trạng nguyên kinh (cho Bắc Bộ) và một trạng
nguyên trại (Thanh Hoá trở vào). Việc này không chỉ có ý nghĩa “ưu
tiên vùng sâu vùng xa” mà còn cho thấy cái nhìn chiến lược về vùng
đất Hoan, Diễn (Thanh, Nghệ), nơi giữ vị trí “phên giậu” của đất nước. Chả
thế mà trong cuộc kháng Nguyên lần thứ hai, đang khi yếu thế phải bỏ Thăng Long
chạy vào Thanh – Nghệ, Trần Nhân Tông
vẫn rất vững tâm:
Cối Kê cựu sự
quân tu ký
Hoan Diễn do
tồn thập vạn binh
(Chuyện cũ
đất Cối Kê ngươi nên nhớ
Hoan Diễn còn
kia chục vạn quân)
c) Dùng
người không câu nệ, không thành kiến
Cách dùng
người không câu nệ về học vấn, xuất thân, công hay tội trong quá khứ
đã giúp nhà Trần sử dụng đươc rất nhiều nhân tài. Dưới đây là một
số ví dụ.
– Tuy chế
độ khoa cử để tuyển quan lại đã rất phát triển, nhà Trần vẫn dùng
cả hình thức chọn người tài không qua thi cử gọi là “thủ sỹ”.
– Yết Kiêu
và Dã Tượng vốn chỉ là những gia
nô nhưng được Trần Hưng Đạo tin dùng, đã trở thành những tướng lĩnh
xuất sắc. Một lần thuỷ quân ta thua chạy, Hưng Đạo Vương toan rút theo
đường núi thì Dã Tượng bảo: “Yết Kiêu chưa thấy Đại Vương thì nhất định
không dời thuyền”. Đến Bãi Tân, quả nhiên thấy thuyền Yết Kiêu vẫn còn ở đó.
Nhờ thuyền của Yết Kiêu, kỵ binh Nguyên đuổi theo không kịp, Hưng Đạo Vương
rút về Vạn Kiếp an toàn. Vương cảm động nói: “Chim hồng hộc muốn bay cao
phải nhờ ở sáu trụ cánh. Nếu không có sáu chiếc trụ cánh ấy thì cũng là chim
thường thôi”.
– Đỗ Khắc Chung
chỉ là một viên quan nhỏ, vô danh, thế nhưng trong lúc quân ta ở vào
thế lâm nguy, Khắc Chung đã tình nguyện sang trại giặc. Vua Trần cảm
động nói: “Ai ngờ trong đám ngựa kéo xe muối lại có ngựa kỳ, ngựa
ký như thế”. Gặp Ô Mã Nhi, Khắc Chung ứng đối trôi chảy và cho giặc
thấy khí phách người Đại Việt, đến nỗi Ô Mã Nhi phải khen: “Người
này trong lúc bị uy hiếp mà lời lẽ và khí sắc vẫn bình tĩnh như
thường, không hạ thấp vua mình là Chích, không tâng bốc vua ta là
Nghiêu (…) Nước có người như thế, chưa dễ đã làm gì được họ”.
– Tháng
5-1289, sau khi đánh thắng quân Nguyên lần thứ ba, quân ta bắt được cả một hòm
biểu xin hàng của nhiều quan lại nhà Trần. Thượng hoàng Trần Thánh Tông
sai đốt hết đi để yên lòng những kẻ phản trắc. Nhà vua chỉ trừng phạt kẻ
nào đã chạy hẳn sang hàng ngũ giặc bằng kết án vắng mặt với các
tội xử tử, lưu đày, tịch thu điền sản, tước bỏ quốc tính.
– Ngay Trần
Quốc Tuấn, vị anh hùng hàng đầu trong hai cuộc kháng Nguyên, cũng
từng là người có tội. Sách Cương mục còn ghi lại câu chuyện, rằng
đương đêm, Trần Quốc Tuấn lẻn vào tư thông với công chúa Thiên Thành,
con Nhân Đạo Vương, trong khi công chúa đã hứa hôn với Trung Thành Vương
(định xong cả ngày cưới). Nhà vua và Nhân Đạo Vương bất đắc dĩ phải
gả công chúa Thiên Thành cho Quốc Tuấn.
– Có thể kể thêm về tinh thần khoan dung
của vua Trần Nhân Tông trong việc chấp nhận ngoại tộc làm con rể,
tính kế lâu dài cho đất nước. Như ở bài 1 đã nói, sau chiến thắng
quân Nguyên lần thứ ba, Trần Nhân Tông có cuộc đi chơi dài ngày ở
Champa, đó là một điều độc đáo. Bởi vì ta biết, các vua ta xưa vẫn
thường có cái nhìn kỳ thị với các nước láng giềng phương Nam, coi
họ là “di”, “rợ”. Vua Trần Nhân Tông sau đó còn gả công chúa Huyền Trân để
đổi lấy đất. Sự việc này có thể coi là sự hy sinh tình riêng để đổi
lấy lợi ích quốc gia.
Trên đây là
lược thuật một số chính sách, việc làm tích cực của vua tôi nhà
Trần, chủ yếu diễn ra trong nửa đầu thời kỳ trị vì của nhà Trần
(từ 1226 đến hết thế kỷ XIII). Những chính sách, việc làm tích cực
đó còn giúp cho nước Đại Việt thịnh đạt một thời gian dài khoảng 50
năm sau, cho đến giữa thế kỷ XIV. Đặc biệt trong nửa sau thế kỷ XIII,
trong khoảng chưa đầy ba mươi năm, dân tộc Đại Việt ba lần đánh tan quân
xâm lược Mông – Nguyên, những đội quân hùng mạnh và tàn bạo bậc nhất
thế giới lúc bấy giờ. Nhiều quốc gia rộng lớn thuộc hàng cường
quốc của thời đại (Trung Quốc, Ba Tư, Nga,…) đã phải khuất phục quân
Mông Cổ. Ở Đức xuất hiện câu cầu nguyện “Chúa cứu vớt chúng con
khỏi cơn thịnh nộ của Tatar”. Một số dân tộc khác từng đánh thắng
quân xâm lược Mông Cổ nhưng không dân tộc nào có chiến thắng vẻ vang
như Đại Việt. Đó là cuộc “thoát Trung” ngoạn mục trong nhiều cuộc
thoát Trung của dân tộc ta.
Đ.T.T
[1] Chuyện
bị phạt tội, có giai thoại sau: Trần Khánh Dư thông dâm với công chúa
Thiên Thụy, vợ Trần Quốc Nghiễn, con trai Trần Quốc Tuấn. Vua Trần Thánh Tông
đã phạt tội “đánh đến chết”, nhưng lại ngầm hạ lệnh cho lính đánh chúc đầu gông
xuống, nhờ thế mà qua 100 gậy, Khánh Dư vẫn sống, và theo luật thời đó qua 100
gậy mà không chết nghĩa là “trời tha”. Sau đó, ông bị phế truất binh quyền,
tịch thu gia sản, phải về Chí Linh làm nghề bán than.
[2] Không
biết thời đó có cần đến cưỡng chế không.
[3] Lời
bình: Ở thế kỷ XXI này nếu vẫn coi chủ nghĩa Mác – Lênin là nền
tảng, là đủ dùng để dẫn đường đất nước, thì có phải là một sự
tụt lùi so với ông cha cách đây 800 năm không?
|
Thứ Ba, 17 tháng 6, 2014
Nước Đại Việt ta thời Trần đã thoát Tàu như thế nào
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét