Hiển thị các bài đăng có nhãn khoahoc. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn khoahoc. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 23 tháng 6, 2014

Những thứ sẽ biến mất trong tương lai?





Những thứ sẽ biến mất trong tương lai?

image


Với tốc độ phát triển như vũ bão hiện nay, kỹ thuật mang lại cho chúng ta ngày một nhiều tiện ích bất ngờ, những trải nghiệm thú vị. Những phát minh tối tân đang hoặc sẽ dần thay thế những công nghệ “lỗi mốt”. Dưới đây là danh sách 15 công nghệ sẽ biến mất trong tương lai không xa.

1. Internet có dây




image


Internet không dây sẽ chưa thống lĩnh thị trường trong vòng 8 đến 10 năm tới song nó sẽ nhanh chóng “bức tử” mạng có dây vì chi phí thấp và dịch vụ không giới hạn.

2. Máy ảnh và máy quay phim chuyên dụng



image
Camera tích hợp trên điện thoại thông minh đang dần giết chết máy ảnh và máy quay phim chuyên dụng sử dụng cho gia đình.
Không giống như máy ảnh, vật dụng chúng ta chỉ mang theo khi cần chụp hình, điện thoại thông minh luôn luôn theo sát chúng ta. Thiết bị công nghệ cao này cung cấp tất cả các ứng dụng và bộ lọc để điều chỉnh hình ảnh theo ý muốn đồng thời cho phép người dùng chia sẻ hình ảnh, video trực tuyến ngay khi chúng ta ghi được.


3. Điện thoại cố định 

image

Theo báo cáo của Trung tâm Kiểm soát và Ngăn ngừa Dịch bệnh năm 2010, chỉ 26% các hộ gia đình Mỹ sử dụng điện thoại không dây. Nhưng đến năm 2017, các chuyên gia dự đoán chỉ còn lại một số ít người già sẽ tiếp tục sử dụng điện thoại cố định. Hầu hết mọi người sẽ thích điện thoại cầm tay vì những lợi ích và thuận tiện mà thiết bị di động này mang lại vô cùng đa dạng.


4. Chờ máy tính khởi động

image
Chờ đợi máy tính khởi động là một trong những nỗi thất vọng công nghệ lớn nhất trong kỷ nguyên máy tính. Nhưng thất vọng này sẽ nhanh chóng biến mất vì giờ đây với Windows 8, hệ điều hành cực nhanh, cho phép khởi động máy tính trong vòng 1-2 giây.

5. Cửa sổ điều hành

Mặc dù hệ điều hành của Microsoft vẫn tồn tại nhưng chúng ta sẽ sớm nói lời tạm biệt với hệ thống cửa sổ nơi các ứng dụng được hiển thị ở hộp kéo xuống cùng với thanh tiêu đề và ứng dụng vì hãng sản xuất phần mềm lớn nhất thế giới đã có kế hoạch thay thế cửa sổ bằng giao diện người dùng Metro được mặc định cho Windows 8.

6. Ổ đĩa cứng

image
Ổ đĩa trạng thái rắn SSD cuối cùng cũng cho phép chúng ta vĩnh biệt cách thức lưu trữ dữ liệu trên đĩa từ. Do không có phần chuyển động nên đĩa SSD nhanh và bền hơn rất nhiều đĩa từ. Hiện giá của SSD vẫn cao hơn đĩa từ song trong tương lai máy tính không thể thiếu ổ đĩa SSD.

7. Rạp chiếu phim

image
Nhiều chuyên gia dự đoán rạp chiếu phim sẽ bị “khai tử” khi tivi ra đời và giữ vị trí cai trị trong thế giới truyền thông. Đến thời điểm này, dự đoán đang trở thành hiện thực khi tivi HD màn hình lớn xuất hiện ngày càng nhiều trong các hộ gia đình và giá của tivi 3D ngày càng hợp lý hơn.
Ngoài ra, các nhà phát hành phim cũng phát các bộ phim theo yêu cầu của khách hàng cùng thời điểm bộ phim được chiếu tại rạp.


Với công nghệ phục vụ tận nhà như hiện nay, chúng ta sẽ không phải tốn một khoản tiên kha khá để mua vé cho cả gia đình đến rạp chiếu bóng thưởng thức một bộ phim yêu thích.

8. Chuột máy tính

image
Chuột máy tính có thể không biến mất trong vòng 5 năm nữa nhưng sẽ trở thành lựa chọn thứ hai bởi các nhà sản xuất máy tính đang có xu hướng tung ra thị trường dòng sản phẩm cảm ứng hay điều khiển bằng cử chỉ.

9. Kính 3D

image
Kể từ khi những bộ phim 3D đầu tiên được công chiếu vào những năm 1950, người xem buộc phải đeo kính chuyên dụng 3D mới có thể trải nghiệm hiệu ứng nổi.
Năm 2011, Toshiba đã tung ra thị trường máy tính xách tay F755. Máy tính mini này sử dụng webcam để theo dõi chuyển động của mắt và phục vụ hình ảnh 3D vô cùng sống động.


Năm ngoái, hai nhà sản xuất điện thoại HTC và LG cũng cho ra mắt 2 thiết bị tích hợp màn hình 3D cho phép người dùng xem phim 3D mà không cần kính.
Với tốc độ này, kính 3D sẽ nhanh chóng trở thành dĩ vãng.

10. Điều khiển từ xa

image
Điện thoại thông minh sẽ giúp chúng ta chuyển kênh tivi mà không cần tới điều khiển từ xa và người dùng thậm chí có thay đổi chương trình bằng giọng nói hay cử chỉ. Điều khiển từ xa đo đó không còn lý do để tồn tại.

11. Máy tính để bàn

image
Trong kỷ nguyên công nghệ phát triển từng giờ như hiện nay, các nhà sản xuất máy tính sẽ không tiếp tục sản xuất máy tính để bàn. Thay vào đó là máy tính bảng, máy tính xách tay, điện thoại thông minh…

12. Số điện thoại

image 
Với sự ra đời của dịch vụ chat Voice như Skype, Google Talk và Facebook audio…bạn có thể tha hồ nói chuyện với bạn bè, người thân khắp nơi trên thế giới chỉ cần ghi danh account người dùng. Thế hệ trẻ khi gặp nhau sẽ hỏi ID thay vì hỏi số phone.

13. Chương trình truyền hình phát vào khung giờ cố định

image
Trước kia mọi người thường phải ngồi quanh tivi vào giờ nhất định để xem chương trình mà họ yêu thích. Giờ đây, tivi internet cung cấp tất cả các chương trình truyền hình miễn phí mà người dùng có thể xem bất cứ khi nào, ở đâu. Chúng ta thậm chí cũng không cần phải ghi lại các chương trình truyền hình vì chúng luôn sẵn có trên mạng.

14. Máy fax

image
Trong thời đại thư điện tử, nhiều công ty sẽ chấp nhận chữ ký điện tử thay vì chữ ký được gửi qua máy fax. Đây là lý do khiến thiết bị này có thể không tồn tại thêm bao lâu nữa.

15. Đĩa quang học

image




Với sự tăng trưởng của các dịch vụ tải video từ mạng, đĩa quang học không phải là lựa chọn để người dùng ghi dữ liệu và các nội dung giải trí. Đĩa quang học do đó sẽ khó có chỗ đứng trên thị trường.Song Hà


------------------------------------------------------------




Hồ Chí Minh: con khủng long ba đầu, chín đuôi
Cuộc đời của người tị nạn
Đánh giá về ngoại giao Tập Cận Bình
Giảm lệ thuộc vào Trung Cộng như thế nào
Du học: "Đi đi, đừng về!"
Vợ chồng và World Cup
Những mánh khóe và xảo thuật của đặc công Việt cộn...
Khoa học gia gốc Ấn thắng giải lương thực Thế giới...
TC đưa giàn khoan thứ hai gần VN hơn
Indonesia 'khó dẹp' khu đèn đỏ
Trí thức Mỹ nói không với Học Viện Khổng Tử của Tr...
Hiểm họa từ căn cứ quân sự trái phép TC xây trên đ...
Hãy trả lại sự thật cho lịch sử!
Bất ngờ và thất vọng sau vòng một
Tổng thống Obama loan báo kế hoạch bảo vệ Thái Bìn...
Chiến lược tối hậu của Mỹ để kiềm chế Trung Cộng
Huyền thoại cây Sồi già
Hãy sống đúng nghĩa như một hoa hậu
Phở Việt ở Brazil 248.000 đồng/tô
Bóng Đá Mỹ: Số Đỏ
Phong trào 'Không bán nước' được hưởng ứng và lan ...
Màn kịch độc ác và tàn nhẫn?
Đại sứ Trung Cộng Wang Min tố cáo chính quyền Hà N...
Người Việt ở Mỹ với Father's Day
Khi nào Việt Nam thay đổi
TS Hà Vũ: ‘TC chiếm nốt Trường Sa, chính thể VN th...
Thoát Trung, nhưng coi chừng một sai lầm bi đát!
Việt - Mỹ lộ dần những tín hiệu mới
Không tay chân vẫn câu được hơn 7.000 con cá
Những bằng chứng Trung Cộng tố cáo Việt Cộng
Tại sao không nên dùng chữ Trung Quốc?
Trung Quốc - Đứa trẻ hư cần được dạy dỗ
Tiểu bang California đặt tên đường “Ca nhạc sĩ Việ...
Thế Uyên, Tình dục là sự sống
Ai đưa Nguyễn Tấn Dũng lên đỉnh cao quyền lực
Trung Cộng 'Quốc tế hóa' tranh chấp Biển Đông?
Cả Thế Giới ghét TC
Nếu phải đánh nhau.?
TC phản công ‘chiến dịch bôi nhọ’ của VN
Gần nửa bao cao su ở VN 'không chuẩn’















Thứ Năm, 19 tháng 6, 2014

Hệ thống Thông tin Định vị Toàn cầu bằng vệ tinh .







Hệ thống Thông tin Định vị Toàn cầu bằng vệ tinh

Vietsciences- Nguyễn Quang Riệu     15/12/2005


Đức Tâm  (Radio France Internationale, RFI) phỏng vấn nhà thiên văn  Nguyễn Quang Riệu thuộc Đài thiên văn Paris về dự án  Galileo của châu Âu, hệ thống thông tin định vị toàn cầu qua vệ tinh .

RFI: Trong tháng 12 này châu Âu sẽ phóng chiếc vệ tinh đầu tiên trong kế hoạch thử nghiệm triển khai hệ thống thông tin định vị toàn cầu Galileo. Galileo là một dự án  mang tính chiến lược đối với châu Âu,  nó chứng tỏ sự trưởng thành và phát triển của châu Âu trong lĩnh vực công nghệ thông tin qua vệ tinh. Dự án còn giúp châu lục này  khẳng định tính độc lập tự chủ, mang lại nhiều lợi ích kinh tế và nâng cao vị thế của châu Âu trong quan hệ đối ngoại.
Để hiểu rõ hơn về quy mô, tầm quang trọng cũng như ý nghĩa của dự án Galileo, RFI phỏng vấn nhà Thiên văn Nguyễn Quang Riệu thuộc đài Thiên văn Paris.
RFI: Xin chào nhà Thiên văn Nguyễn Quang Riệu,
Thưa anh, dự án Hệ thống Thông tin Định vị Toàn cầu Galileo cùa châu Âu bước sang giai đoạn quyết định với việc phóng vệ tinh mang tên Giove vào thàng 12 này. Vậy xin anh cho biết quy mô của dự án Galileo.





NQR: Hệ Galileo là một dự án để làm một hệ định vị toàn cầu bằng vệ tinh.  Hệ định vị làm ra đầu tiên và hiện nay hoạt động phổ biến trên thị trường là của Mỹ mà ta thường gọi là GPS. Còn hệ Galileo là cơ  quan không gian châu Âu đang phát triển và dự tính sẽ được sử dụng  vào năm 2008.

Galileo gồm có 30 vệ tinh phân phối  thành 3 nhóm bay theo 3 quỹ đạo hình tròn quanh trái đất và ở độ cao khoảng 24 000 km. Chỉ có 27 vệ tinh của Galileo là hoạt động thực sự, 3 vệ tinh còn lại  là vệ tinh dự phòng  để thay thế cho vệ tinh nào hỏng, nhằm làm tăng độ tin cậy của hệ định vị.  Hệ Galileo hoạt động trên những giải tần số khoảng 1250 Megahertz và 1570 Megahertz.  Những giải tần số vô tuyến này được chọn để thích hợp với những giải tần số của hệ GPS (Global positioning system) nhằm hoạt động cùng với GPS và cũng để tránh xâm phạm vào những  giải tần số dành riêng cho các nhà Thiên văn vô tuyến dùng để nghiên cứu những bức xạ vũ trụ.  Bởi vì sự đo đạc thời gian  phát tín hiệu vô tuyến từ  các vệ tinh và thời gian thu tín hiệu tại các trạm trên mặt đất cần phải thật chính xác nên các vệ tinh cũng như các trạm trên trái đất phải được trang bị đồng hồ nguyên tử  và các đồng hồ phải khớp với nhau để quản lý toàn bộ hệ Galileo. Hai trung tâm điểu khiển vệ tinh được đặt tại châu Âu và hàng chục  trạm phát và thu tín hiệu được đặt rải rác trên toàn cầu.
Trong tháng 12 này, vệ tinh Giove sẽ được phóng lên một quỹ đạo của hệ Galileo bằng tên lửa Soyouz.  Vệ tinh đuợc đặt tên là Giove để để tôn vinh nhà thiên văn Galileo ở thế kỷ 17,  người  đầu tiên đã phát hiện được 4 mặt trăng  quay xung quanh hành tinh Mộc, tiếng Ý gọi là Giove (Jupiter). Giove có thể coi là vệ tinh  tiền phong cho hệ Galileo được phóng lên để  xem vệ tinh có hoạt động bình thường trên quỹ đạo sau khi trải qua giai đoạn lắc mạnh của tên lửa và  để thử nghiệm những thiết bị.  Một vệ tinh Giove thứ hai  cũng sẽ được phóng trong năm 2006. Cả hai vệ tinh Giove không thuộc   vào hệ Galileo mà  chỉ được dùng trong 2 năm cho công việc  thử nghiệm hệ Galileo.

RFI: Dạ thưa anh, để thực hiện dự án này, châu Âu cũng mất khá nhiều thời gian?

NQR: Cho tới nay có 2 hệ thống định vị toàn cầu bằng vệ tinh, đó là hệ GPS của Mỹ và hệ GLONASS của Nga. Cả hai đề án này đã được đề xuất từ trong thời kỳ chiến tranh lạnh để phục vụ trong lĩnh vực quân sự và cả hai đều gồm có 24 vệ tinh. GPS đuợc đưa vào hoạt động từ những  năm 1980 và được sử dụng  bởi  quân đội Hoa Kỳ để điều khiển tên lửa hoặc để xác định vị trí các đơn vị trên chiến trường. Từ năm 1993 bộ quốc phòng Mỹ bắt đầu cho phép các cơ quan dân sự sử dụng GPS.  Từ những năm 1990 Nga cũng khai thác  hệ GLONASS của họ, với mục tiêu quân sự. Tuy nhiên do tình huống  kinh tế không được khả quan sau  khi Liên xô trở thành liên  bang Nga cho nên hệ GLONASS không hoạt động có hiệu quả, chỉ có 7 trên 24 vệ tinh hãy còn  hoạt động. Do đó trong vòng  mươi  năm nay chỉ có hệ GPS của Mỹ là hoạt động dường như độc quyền trên thị trường công nghệ định vị và hướng dẫn giao thông bằng vệ tinh.
Để chấm dứt tình huống phải phụ thuộc  vào  GPS của Mỹ, năm 2002 cộng đồng châu Âu đã quyết định thực hiện dự án  Galileo. Những  vệ tinh đầu tiên của hệ Galileo sẽ được phóng năm 2006 để hệ Galileo có thể  bắt đầu hoạt động vào  năm 2008. Vệ tinh sẽ được  phóng bằng tên lửa Ariane V của Cộng đồng châu Âu và sẽ hoạt động được trong 18 năm.

RFI: Xin anh cho biết một số ứng dụng quan trọng của Galileo một khi hệ thống này hoạt động.



NQR: Số vệ tinh của Galileo lớn hơn là số vệ tinh của GPS và của GLONASS nên có độ chính xác cao hơn Galileo
Xe hơi hiện  nay thường được trang bị hệ định vị để được hướng dẫn đến nơi đến chốn, người lái xe không cấn nhìn bản đồ


NQR: Số vệ tinh của Galileo lớn hơn là số vệ tinh của GPS và của GLONASS nên có độ chính xác cao

Xe hơi hiện  nay thường được trang bị hệ định vị để được hướng dẫn đến nơi đến chốn, người lái xe không cấn nhìn bản đồ

hơn. Galileo  là một dự án hoàn toàn dân sự và ứng dụng của Galileo rất đa dạng. Ngày nay với những hệ định vị bằng vệ tinh như Galileo, sự xác định tọa độ rất là chính xác, không sai quá vài mét. Galileo cũng như GPS được dùng để hướng dẫn máy bay. Xe hơi hiện  nay thường được trang bị hệ định vị để được hướng dẫn đến nơi đến chốn, người lái xe không cấn nhìn bản đồ. Những nhà mạo hiểm ở những nơi hẻo lánh cũng có thể được cứu trợ nhanh chóng và  các vụ cháy rừng cũng được dập tắt nhanh chóng. Việt Nam cũng đã có công trình ứng dụng công nghệ GPS để đo đạc bản đồ. Và những đồng hồ ngyên tử của hệ  định vị còn cung cấp giờ chính xác cho các nhà thiên văn để họ quan sát các thiên thể.


RFI: Dạ, cho đến nay hệ thống định vị toàn cầu GPS của Hoa kỳ gần như có vai trò độc quyền. Vậy khi Galileo bước vào hoạt động thì mối quan hệ giữa hai hệ thống này sẽ ra sao, thưa anh?

NQR: Hệ Galileo không những sẽ không cạnh tranh với GPS mà còn  bổ sung cho nhau bằng cách cung cấp những dữ liệu đôi khi dư thừa và do đó đáng được tin cậy. Tuy nhiên hệ GPS không sử dụng được tại những vùng Bắc cực và  Nam cực ở những vĩ tuyến quá cao. Với hệ Galileo chúng ta có thể bắt được tín hiệu của Galileo tại cả 2 vùng này. Nhờ có đồng hồ nguyên tử chính xác đặt trên những vệ tinh để xác định thời gian và  nhờ có nhiều vệ tinh nên hầu như ở  bất cứ  địa điểm nào trên trái đất và bất cứ lúc nào cũng có thể bắt được tín hiệu của Galileo. Nếu cần Galileo cũng có thể hoạt động phối hợp với những vệ tinh của GPS.
Thời gian tín hiệu phát từ những vệ tinh  đến trái đất cũng có thể bị thay đổi khi truyền qua tầng khí quyển. Một khi những sự sai lệch này tuy rất ít, được loại ra bằng  tính toán thì độ chính xác của sự đo đạc vị trí  chỉ còn vài cm.

RFI: Câu cuối xin anh cho biết tác động cũng như ý nghĩa của dự án Galileo với châu Âu.

NQR: Với dự án Galileo, Cộng đồng châu Âu tỏ ra có khả năng kỹ thuật cao có thể sánh vai cùng các cường quốc khác trong công việc chinh phục không gian vũ trụ với mục tiêu dân sự. Khi Galileo được đưa vào hoạt động, sẽ chấm dứt độc quyền của GPS của Mỹ trong dịch vụ định vị bằng vệ tinh. Dự án Galileo còn  thu hút sự tham gia của những nước châu Á đã có khả năng  phóng vệ tinh lên Vũ trụ như Ấn độ, Trung  quốc và Nhật bản. Thị trường định vị bằng vệ tinh  đang phát triển về mặt kinh tế. Trong thời gian Galileo hoạt động, các chuyên gia dự đoán sẽ tạo ra cho Cộng đồng châu Âu hàng vạn việc làm có trình độ chuyên môn cao.



RFI:  Xin cảm ơn nhà thiên văn Nguyễn Quang Riệu đã vui lòng trả lời phỏng  vấn RFI.


Vài hình ảnh:

Hệ thống GPS (Global positioning system) gồm có 24 vệ tinh phân phối  thành 6 nhóm bay theo 6 quỹ đạo hình tròn quanh trái đất và ở độ cao khoảng 20 200 km.
Hình của Peter H. Dana
Hệ thống GLONASS (GLObal NAvigation Satellite System).  gồm 24 vệ tinh  phân phối  thành 3 nhóm bay theo 3 quỹ đạo hình tròn quanh trái đất và ở độ cao khoảng 19 100 km. Chỉ có 7 trên 24 vệ tinh hãy còn  hoạt động.
Soyuz launcher on the launch pad
Trong tháng 12 này, vệ tinh Giove sẽ được phóng lên một quỹ đạo của hệ Galileo bằng tên lửa Soyouz
Energia

           © http://vietsciences.free.fr  và http://vietsciences.net  Nguyễn Quang Riệu











Thứ Tư, 18 tháng 6, 2014

Kính Planck : Cuộc truy tầm gương mặt vũ trụ nguyên thủy








Kính Planck : Cuộc truy tầm gương mặt vũ trụ nguyên thủy

Trọng Thành

Ngày 23/10/2013, kính thiên văn Planck của Cơ quan Không gian Châu Âu (ESA) chính thức ngừng hoạt động, chấm dứt hơn bốn năm làm việc cần mẫn trên không gian nhằm thu thập các thông tin về nguồn gốc và sự tiến hóa của vũ trụ. Được đánh giá là kính thiên văn chính xác nhất cho đến nay trong lĩnh vực này, Planck mang lại những kết quả gì cho ngành thiên văn học ? Đây là chủ đề chính của tạp chí Khoa học của RFI tuần này.











Vệ tinh Planck.
Vệ tinh Planck. ESA/S. Corvaja

Vệ tinh Planck mang tên nhà vật lý người Đức Max Planck, cha đẻ của thuyết lượng tử. Kính thiên văn Planck, được phóng lên quỹ đạo cách Trái Đất khoảng 1,5 triệu km, tức gấp chừng bốn lần khoảng cách giữa Trái Đất và Mặt Trăng, để quan sát những gì xẩy ra cách đây gần 14 tỷ năm, vào thời điểm vũ trụ của chúng ta vừa mới ra đời. Planck là kính thiên văn thứ ba được đưa vào không gian để quan sát gương mặt nguyên thủy của vũ trụ, tiếp theo hai chiếc kính của Cơ quan không gian Mỹ Nasa, vệ tinh COBE (cuối những năm 1980) và vệ tinh WMAP vào năm 2001.

Kính Planck đã hoàn thành một sứ mệnh nghiên cứu được giới khoa học đánh giá là rất thành công. Hiện tại, phi thuyền mang kính Planck bước vào giai đoạn nghỉ ngơi và sẽ được đưa lên một quỹ đạo dành cho các vệ tinh « nghỉ hưu ». Nhân dịp này, RFI tiếng Việt có cuộc phỏng vấn với nhà thiên văn Nguyễn Quang Riệu, nguyên giám đốc nghiên cứu Đài Thiên văn Paris.
Ông Nguyễn Quang Riệu là tác giả nhiều cuốn sách phổ biến thiên văn học bằng tiếng Việt, như "Bầu trời tuổi thơ", NXB Giáo dục, 2002, "Lang thang trên dải Ngân Hà", NXB Văn hóa thông tin, 1997, "Vũ trụ phòng thí nghiệm thiên nhiên vĩ đại", NXB Giáo dục, 1995...


Nhà thiên văn học Nguyễn Quang Riệu (DR)

RFI : Xin chào nhà thiên văn Nguyễn Quang Riệu. Nhân dịp Planck hoàn tất sứ mệnh, xin ông cho thính giả biết một đôi nét về trạm quan sát vũ trụ đặc biệt này.

Nguyễn Quang Riệu : Trong nhiều năm qua, đã có một số kính thiên văn ngày càng lớn được phóng lên không gian để quan sát ngày càng tỉ mỉ bức xạ vi ba phông vũ trụ (cosmic microwave background). Bức xạ này là tàn dư của vụ nổ Big Bang khai sinh ra vũ trụ và đã được phát hiện từ năm 1964 bởi hai nhà khoa học người Mỹ nghiên cứu trong lĩnh vực vô tuyến tại công ty Bell Laboratories. Họ sử dụng một chiếc angten đặt trên mặt đất và tình cờ thu được một bức xạ vi ba (tức là trên bước sóng vô tuyến) đồng đều bao phủ khắp không gian. Vì khí quyển trái đất là một tấm màn hấp thụ phần nào những bức xạ phát ra từ vũ trụ, nhất là trên bước sóng vô tuyến ngắn và bước sóng hồng ngoại, cho nên sau này các nhà thiên văn phải phóng vệ tinh chở kính thiên văn ra ngoài khí quyển trái đất để quan sát chi tiết bức xạ vi ba phông vũ trụ. Những kính thiên văn phóng lên không gian có cùng một phát hiện là : Bức xạ phông vũ trụ không đồng đều so với những kết quả đầu tiên thu được trong angten đặt trên mặt đất.

Kính thiên văn Planck được phóng vào mùa xuân năm 2009 bởi tên lửa Ariane 5 của Cơ quan Vũ trụ Châu Âu, ESA. Ưu điểm của hệ kính Planck so với những kính phóng lên không gian trước đây là những thiết bị thu tín hiệu cuả kính Planck được ướp lạnh xuống tận 0,1 độ Kelvin, tức là thấp gần bằng không độ tuyệt đối (-273 độ Celsius), nhằm giảm tối thiểu tiếng ồn của máy thu. Nhờ có ngành công nghệ tiên tiến về mặt kỹ thuật ướp lạnh ở nhiệt độ rất thấp mà kính Planck mới được trang bị máy thu tín hiệu có độ nhạy cao. Nhiệm vụ của kính Planck đã kết thúc vào tháng 10 năm 2013 sau khi lượng khí cuả bộ phận ướp lạnh đã cạn kiệt. Vệ tinh Planck là vật thể lạnh nhất mà con người đã từng phóng vào vũ trụ.

Vị trí của vệ tinh Planck trong không gian hệ Mặt Trời. Ở giữa là Trái Đất, Mặt Trời ở bên trái và vệ tinh Planck nằm ở bên phải (liên tục tự quay tròn - một phút/vòng - để chụp các bức xạ phông vũ trụ).
Photo ESA

RFI : Thưa ông, vừa rồi ông có nói đến “bức xạ phông vũ trụ”, mục tiêu nghiên cứu chính của kính Planck, xin ông giải thích khái niệm này ?

Nguyễn Quang Riệu : Theo thuyết Big Bang thì vũ trụ cực kỳ nóng sau khi vừa mới ra đời nên bị ion hóa, tức là electron bị tách ra khỏi nguyên tử. Trong môi trường ion hóa, những hạt photon, tức là những hạt ánh sáng, trong quá trình di chuyển thì va chạm với electron và bị khuếch tán ra tứ phía nên vũ trụ bị mờ đục. Phải đợi khoảng 400 nghìn năm sau Big Bang, khi vũ trụ đã nguội dần thì những hạt electron mới tái hợp được với những hạt ion. Bắt đầu từ thời điểm này, không còn electron để khuếch tán những hạt photon nên photon chuyển động tự do và vũ trụ mới trở nên trong sáng. Bức xạ phông vũ trụ quan sát được hiện nay là hình ảnh cuả vũ trụ vừa mới ló sáng (tức vũ trụ ở tuổi 400.000 năm về sau). Những sự kiện đã từng xẩy ra trong vũ trụ nguyên thủy ở những thời điểm xa xôi cùng quá trình tiến hoá của vũ trụ được mô tả dựa trên những kết quả quan sát bức xạ phông vũ trụ và những định luật vật lý.

Những kết quả thu được từ những kính phóng lên không gian trước đây đã cho thấy là bức xạ phông vũ trụ không hoàn toàn đồng đều. Biên độ cuả sự thăng giáng nhiệt độ trên vòm trời tuy cực kỳ nhỏ, nhưng phản ánh một vũ trụ lổn nhổn vật chất. Phông vi ba vũ trụ có thể được coi như một tấm thẻ căn cước chứa đựng những thông tin về vũ trụ sơ sinh. Số liệu thu được bằng những kính không gian phóng trước đây và kính Planck phóng mới đây đã được xử lý bằng kỹ thuật thống kê sử dụng sự phân bố và biên độ cuả những thăng giáng nhiệt độ tương ứng với những cụm vật chất. Sau đó, các nhà vật lý thiên văn dùng mô hình vũ trụ học để tính toán thành phần năng lượng và vật chất trong vũ trụ.

Một mô hình về tiến hóa của vũ trụ được giới thiên văn học hiện nay chấp nhận là khi vừa mới ra đời thì vũ trụ cực kỳ nóng, cực kỳ đặc và cực kỳ nhỏ, những yếu tố để làm cho vũ trụ bỗng phình ra gấp bội chỉ trong một khoảnh khắc. Hiện tượng này làm vũ trụ phát triển và bành trướng chớp nhoáng và có thể được gọi là hiện tượng « lạm phát » hoặc « lạm phình ». Vũ trụ nguyên thủy là một thế giới vi mô trong đó những hiện tượng vật lý phải tuân theo những định luật của vật lý lượng tử. Trong vũ trụ vi mô nguyên thủy những hạt vật chất xuất hiện rồi biến đi tức thì. Hiện tượng này gọi là dao động lượng tử làm cho vũ trụ khi vừa mới ra đời không hoàn toàn mịn màng và đồng đều. Những dao động lượng tử mới đầu ở dạng vi mô và được trải rộng ra cùng với toàn thể vũ trụ sơ sinh sau khi hiện tượng lạm phát xẩy ra để trở thành những cụm vật chất rải rắc khắp nơi trong vũ trụ. Những cụm vật chất này là mầm mống của những chùm thiên hà trong vũ trụ.

Kết quả quan sát bằng những kính thiên văn còn cho thấy đa phần vũ trụ là vô hình, bởi vì vũ trụ chứa rất nhiều “năng lượng tối”, thành phần vật chất chỉ có khoảng 25% mà trong số này đa phần lại là “vật chất tối”. Vật chất thường mà các nhà thiên văn phát hiện được và nhìn thấy được và để sau này tạo ra những thiên hà và những ngôi sao chỉ có vỏn vẹn khoảng 4%. Kính Planck cũng khẳng định đại thể những kết quả đã đo được bằng những kính phóng trước đây. Vật chất tối không phát ra bức xạ nào cả mà chỉ thể hiện thông qua sự tương tác với trường hấp dẫn. Những tia xạ phát ra từ những thiên hà bị chệch hướng khi truyền gần những đám vật chất tối do tác động của trường hấp dẫn của vật chất tối. Do đó, hình ảnh méo mó cuả những thiên hà phản ánh sự hiện diện của vật chất tối. Còn vai trò của năng lượng tối là làm vũ trụ dãn nở ngày càng nhanh. Tuy nhiên, bản chất cuả vật chất tối và năng lượng tối vẫn chưa được xác định.


RFI : Xin ông cho biết thêm về các phát hiện riêng của kính Planck trong cuộc hành trình thám hiểm 4 năm qua.

Nguyễn Quang Riệu : Kính Planck có độ nhạy và độ phân giải cao. Mục tiêu cuả kính Planck là quan sát chi tiết cấu trúc cuả bức xạ phông vũ trụ nhằm hoàn thành một mô hình thỏa đáng mô tả nguồn gốc và sự tiến hoá cuả vũ trụ. Những kết quả sơ bộ cuả kính Planck khẳng định phần nào những kết quả quan sát trước đây. Tuy nhiên, kết quả quan sát bằng kính Planck chính xác hơn và xác định là vũ trụ có 13,82 tỷ năm tuổi, tức là có tuổi cao hơn khoảng 70 triệu năm, so với tuổi xác định từ trước. Kính Planck cũng cho thấy vũ trụ dãn nở chậm hơn. Số lượng của vật chất tối thì lớn hơn và năng lượng tối thì ít hơn, so với những kết quả đã thu được. Những số liệu này có ảnh hưởng đến việc nghiên cứu về sự tiến hoá của vũ trụ.

Những kết quả của kính Planck hiện nay hãy còn là sơ bộ và dường như khẳng định là hiện tượng lạm phát làm vũ trụ sơ sinh bỗng phình lên gấp bội là đã từng xẩy ra. Tuy nhiên, một số chi tiết phát hiện được trong bức xạ phông vũ trụ bằng kính Planck vẫn chưa được giải thích thỏa đáng bằng những mô hình lý thuyết. Kho số liệu dồi dào thu được bằng kính Planck còn cần nhiều thời gian để được khai thác và sẽ đem lại cho các nhà thiên văn những kết quả nhất quán hơn trong công việc nghiên cứu nguồn gốc và sự tiến hoá cuả vũ trụ.

Kính Planck chụp bức xạ phông vũ trụ (video của Cơ quan Không gian Châu Âu - ESA)

RFI : Nói đến kính Planck không thể không nhắc đến kính thiên văn Herschel, được phóng cùng đợt với Planck, đã “hoàn thành sứ mệnh” từ tháng 5 năm nay. Xin ông cho biết thêm về chiếc kính này.

Nguyễn Quang Riệu : Kính Herschel có đường kính tương đối lớn (3,5m) được phóng cùng chuyến với kính Planck bằng tên lửa Ariane 5 và cũng có một hệ phổ kế được ướp lạnh xuống gần tới không độ tuyệt đối. Kính Herschel được dùng để quan sát bức xạ phát ra bởi những thiên thể chưa đủ nóng để phát ra ánh sáng mà chỉ phát ra bức xạ hồng ngoại và vô tuyến. Mục tiêu cuả kính Herschel là tìm hiểu sự hình thành và sự tiến hoá cuả các thiên thể và những hiện tượng lý-hoá liên quan đến những vấn đề này.

Trong quá trình xử lý số liệu nhằm quan sát bức xạ phông vũ trụ, trước hết các nhà thiên văn phải lọc ra được bức xạ phát ra ở cận cảnh chồng lên bức xạ phông vũ trụ ở hậu cảnh. Vũ trụ ở cận cảnh chính lại là những thiên hà và Ngân hà và được coi là những đối tượng nghiên cứu không kém phần quan trọng và đã được quan sát bằng kính Herschel.
Những thiên thể này gồm cả những hệ thiên hà và những ngôi sao xa lắc hãy còn ở giai đoạn đang hình thành. Bụi và khí trong môi trường liên sao cuả dải Ngân hà cũng được quan sát để tìm hiểu quá trình hoá học dẫn đến sự hình thành những ngôi sao. Những đối tượng này chủ yếu phát ra bức xạ hồng ngoại không nhìn thấy từ trái đất. Herschel cũng đã phát hiện là những ngôi sao được hình thành trong những tinh vân chứa tương đối nhiều bụi và phân tử. Tuy nhiên, những đám khí này vẫn cực kỳ loãng, có mật độ chỉ thấp bằng khoảng một phần nghìn tỷ tỷ lần mật độ cuả khí quyển trên bề mặt trái đất.

Các nhà thiên văn cũng dùng kính Herschel để quan sát hiện tượng ra đời và chết đi của những ngôi sao. Những vụ va chạm khủng khiếp giữa những thiên hà có khả năng gây ra sự bùng phát hàng loạt ngôi sao nên cũng được quan sát. Môi trường xáo lộn xung quanh lỗ đen khổng lồ ẩn náu ngay trong trung tâm Ngân hà cũng được quan sát bằng sự đo đạc nhiệt độ và mật độ và sự chuyển động hỗn loạn cuả những đám khí ở môi trường xung quanh lỗ đen.
Herschel phát hiện được một thiên hà trong vùng vũ trụ xa xôi, khi vũ trụ mới có khoảng 800 triệu năm tuổi, tức là rất sớm so với 13,82 tỷ năm tuổi cuả vũ trụ. Quan sát tỉ mỉ những loại thiên thể non trẻ này giúp các nhà thiên văn kiểm nghiệm lý thuyết mô tả quá trình hình thành các thiên hà. Vật chất tối đóng vai trò chủ chốt trong quá trình hình thành các thiên hà cũng là mục tiêu quan sát.
Kính Herschel cũng được dùng để thăm dò không gian ở rià hệ mặt trời, nơi có những thiên thể lạnh đóng băng và là những thiên thể nhỏ nhất được hình thành ngay từ ban đầu trong hệ mặt trời. Kích cỡ và đặc tính cuả hành tinh đã được xác định và sẽ được dùng để tìm hiểu quá trình tiến hoá cuả hệ mặt trời.
Dựa trên những kết quả quan sát phân tử nước và đồng vị của nước chứa nguyên tử deuterium trong các sao chổi, kính Herschel phát hiện là nước biển trên trái đất cũng có những đặc trưng cuả nước trên sao chổi. Sao chổi chứa rất nhiều nước đóng thành băng, cho nên có khả năng trong quá khứ sao chổi đã là nguồn cung cấp nước cho những đại dương trên trái đất, mỗi khi va chạm với trái đất.

Cũng như trường hợp kính Planck, toàn thể những số liệu thu được bằng kính Herschel sẽ là một kho tàng cung cấp những thông tin khoa học quý giá đối với các nhà vật lý thiên văn trong cả một thập niên.

RFI : Xin cảm ơn nhà thiên văn Nguyễn Quang Riệu đã giải thích về một số kết quả nghiên cứu thiên văn về quá trình tiến hóa của vũ trụ, đặc biệt với kính thiên văn Planck. Trước khi chia tay với thính giả, ông có chia sẻ gì thêm ?

Nguyễn Quang Riệu : Nhân đây, tôi cũng xin được nhắc đến phi thuyền Voyager 1 (của Hoa Kỳ) phóng năm 1977 để thăm dò những hành tinh trong hệ mặt trời, đặc biệt là hai hành tinh khổng lồ Mộc và Thổ. Voyager mang theo cái đĩa ghi tiếng kêu của cá voi và nhạc cuả một ca sĩ rock’n’roll người Mỹ nổi tiếng những năm 60 cuả thế kỷ trước cùng lời chào thân ái cuả nhân loại bằng đủ thứ tiếng. Các nhà khoa học ước mong là nếu người ngoài hành tinh có chặn được phi thuyền Voyager thì có thể giải đoán được những thông điệp thân thiện này và vị trí trong vũ trụ cuả trái đất trên đó có nhân loại.

Các nhà thiên văn nhận định rằng hiện nay Voyager đang bay trong một không gian mà những hạt vật chất phun ra từ mặt trời bắt đầu tương tác với vật chất trong môi trường liên sao. Đây là dấu hiệu chứng tỏ Voyager đang bay ở vùng rìa hệ mặt trời và sắp sửa từ giã hệ mặt trời để tiếp tục cuộc hành trình trong không gian liên sao rộng mênh mông. Voyager là một vật thể chế tạo bởi loài người và sẽ còn lang thang hầu như là vĩnh cửu trong dải Ngân hà.

Có mô hình lý thuyết cho rằng vũ trụ cuả chúng ta chỉ là một phần của một hệ đa vũ trụ vĩnh hằng và vô tận, tương tự như một cái bọt xuất hiện đột xuất trong muôn vàn cái bọt khác trong cốc rượu sâm banh. Những lý thuyết độc đáo và hấp dẫn để giải thích những kết quả quan sát vũ trụ ở thời đại nguyên thủy hiện vẫn còn nằm trong phạm vi khoa học viễn tưởng. Sử dụng những hệ kính thiên văn ngày càng lớn cùng những mô hình lý thuyết ngày càng chính xác, các nhà thiên văn có khả năng sẽ tìm ra được một kịch bản mô tả thỏa đáng số phận cuả toàn thể vũ trụ.

Xin chân thành cảm ơn nhà thiên văn Nguyễn Quang Riệu đã dành thời gian cho cuộc phỏng vấn hôm nay.



Các tin bài liên quan

- Về các thông tin phổ cập khác liên quan đến kính Planck, quý vị có thể truy cập thêm trang web bằng tiếng Pháp dành cho công chúng mang tên "Planck HFI, un regard vers l'origine de l'univers".
Hé lộ về tuổi thơ vũ trụ
''Hướng tới vô tận'': Cuốn sách mới của nhà thiên văn Trịnh Xuân Thuận
Nasa trấn an : Thiên thạch bay "sát" trái đất nhưng không đáng lo
Ngày "Tận thế" của người Maya và thế giới chúng ta
Thiên văn học 2011 : Một năm nhiều phát hiện
Thiên văn học và khoa học công nghệ. Những triển vọng của Việt Nam ?
"Vũ trụ Huyền Diệu"
Năm Địa Cực Quốc tế
Hiện tượng thay đổi khí hậu toàn cầu
Hệ thống Thông tin Định vị Toàn cầu bằng vệ tinh
Nhà thiên văn vật lý Nguyễn Quang Riệu, giải thưởng Hàn Lâm Viện Khoa Học Pháp năm 1973