1.
Về Văn Hóa Việt Với Con Lý Số Chỉ Ra Mẫu Người Văn Hóa:
Điều đặc biệt hơn mọi nền văn hóa của nhân
loại, Văn Hóa Việt có hai nhánh văn hóa: VĂN HÓA HỮU NGÔN (VHHN) và VĂN HÓA VÔ
NGÔN (VHVN)
@ Văn Hóa Hữu Ngôn: dùng lời nói và chữ
viết để diễn ý. Đây là thể loại văn hóa thông dụng cho cả Đông Tây, xưa và nay.
Cái đáng nói của văn hóa nầy là nó được xây dựng trên ý niệm của con người đặt
lên trên sự vật: “Người là thước đo mọi sự” Protagoras.
Sự xác định giá trị không theo tiêu chuẩn
khách quan minh triết mà đánh giá tốt xấu, đúng sai dựa vào cảm tính cá nhân
cho là có lý “cái gì có lý là thực và cái gì thực là hợp lý”(Hegel), lấy ý của
ta đặt trên sự vật, khiến nó mang tính cách nói về hay mô tả sự vật bằng ngôn
ngữ chứ không là cái chính sự vật nó hiển lộ ra như chính nó, đây là điều lầm
lạc tệ hại của nền văn hóa triết tây và cũng là sự khác biệt giữa triết Tây và
Minh Triết Việt.
Văn hóa được đặt trên nền tảng ý hệ mà ý
hệ thì thiếu tính khách quan mà đầy chủ quan được dẫn dắt bằng cảm tính, dẫn
đến nhiều khác biệt dễ đi đến chống đối khiến nó“đi đến đâu gieo sắt máu đến
đó” Heiddegger, ngược với nền Văn Hóa Vô ngôn, sẽ được đề cập dưới đây, văn hóa
nầy để cho sự vật chưng ra, để cho sự vật tự “nói” lên chính nó thay ta nói về
nó, sẽ làm cho chân lý hiển lộ (1).
@ Văn Hóa Vô Ngôn: là nhánh thứ hai của
Văn Hóa Việt, rất độc đáo, không dùng ngôn tự mà dùng “triết tự văn hóa”, là
đạo tự Càn (___) Khôn (_ _) [huyền tự
gọi là Tiên Âm, Rồng Dương] để viết nên các con Lý Số (con số chứa cái lý) để
qua đó, sự vật và sự việc sẽ hiển lộ qua tượng hình và tượng ý như chính nó mà
ta có thể thấy được, thay vì nói về chúng theo lối của VHHN. Điều nầy cũng có
nghĩa là VHVN sẽ giúp ta trực thị sự vật, thấy sự vật và sự việc bằng mắt thay
vì nghe nói về chúng! Dĩ nhiên, cái thấy bao giờ cũng chính xác hơn là cái
nghe: “Trăm nghe không bằng một thấy”! Và, thấy như thế nào đã được đề cập
trong Giải Mã Huyền Thoại Việt, phần viết về Huyền Số và Huyền Đồ, của cùng tác
giả.
Nhắc về nhánh văn hóa nầy ở đây, nhằm giúp
ta nhận diện Mẫu Người Văn Hóa của GS Vịnh cũng như cái Mẫu Người Văn Hóa Việt
đích thực.
@ Mẫu người của nền Văn Hóa có thể “thấy”
được bằng con lý số LI ():
Con lý số chỉ ra Việt Đạo là con LI ()
phía Nam hình Bát Quái Hậu Thiên. LI có nhiều nghĩa, trong lãnh vực Đạo Lý, LI
có nghĩa là sáng, là Chân Lý, là Đạo hay Chủ Đạo Văn Hóa.
Con Lý số LI có cấu trúc các hào nằm vào
vị trí trung chánh, lại được xếp nằm phương Nam đồ hình Bát Quái Hậu Thiên, nên
Khổng Tử nhìn vào đây mà nói rằng đây là điểm mạnh của phương Nam, người quân
tử ở phương nầy: “Nam phương chi cường quân tử cư chi”.
Về cấu trúc, LI () là cơ cấu của mẫu người
Táo Việt: Khác hẳn với Táo Tàu, Táo Việt là một tổ hợp ba thành phần gồm hai
Ông một Bà: “Thế gian một vợ một chồng, đâu như vua táo hai ông một bà”, còn
Táo Tàu chỉ duy nhất là một tên đực rựa. Xin đọc: Ngày Xuân Nói Chuyện Táo Quân
đăng trên mạng www.anviettoancau.net của cùng tác giả.
Tổ hợp ba thành phần làm nên một Táo: Hai
Ông là hai nét Dương Càn (___) và một bà là một nét Âm Khôn (_ _) nằm giữa con LI ( ).
Cấu trúc âm dương bằng Đạo tự Càn (___),
Khôn (_ _) cho ta biết cái Lý Tam Tính
của Đạo LI cũng là Mẫu Người Văn Hóa Việt!
Ngoài tục lệ thờ Ông Táo của ta nhằm nhắc
về Đạo Lý LI. Dưới thời Thủ Tướng Trần Trọng Kim qủe LI còn được chọn làm biểu
tượng của quốc kỳ để nêu bật cái Đạo của người Nam. Đến thời các chính phủ sau
ông, vì không hiểu được ý nghĩa của con Lý Số LI cũng như cái di chúc truyền
dòng của giống Hồng Lạc là xuôi Nam tìm nắng ấm (biểu tượng của LI (Hỏa) trên
Địa là sắc vàng là nền của cờ, là LI Địa Tấn) (2) và ngại rằng LI là Li cách,
chia lìa cũng là biểu tượng của chiến tranh, nên các vị nầy đã thay con LI bằng
con Càn với ba sọc đỏ. Điều nầy khiến nó ứng với số phận chính trị của miền Nam
qua lá cờ mang tượng Thiên Địa Bỉ do ba sọc Càn/Thiên trên nền vàng Khôn/Địa
tạo nên (3)
Phật Giáo gọi cái Lý Tam Tánh Hai Dương
Một Âm, Hai Ông một Bà nầy là Phật Tự Tánh hay Phật Tam Thể BI, TRÍ, DŨNG.
Thiên Chúa Giáo gọi là CHÚA BA NGÔI với ý rằng: Ngôi 1 là Đức Chúa Cha (TRÍ của PG), Ngôi 2 là Đức Chúa
Con (BI hay tình thương hay Nhân lành) và Ngôi 3 là Đức Chúa Thánh Thần (Dũng).
Điều nầy được thấy rõ qua phép làm dấu thánh trong TCG và nói Ba Ngôi là Một,
gọi là mầu nhiệm Đức Tin!
Đối chiếu với mẫu người Táo Quân: Hai hào
dương của con LI là hai ông trong tổ hợp Táo, biểu trưng cho Trí và Dũng, tương
ứng với TCG: Trí (Chúa Cha, làm dấu thánh chỉ Đầu) Dũng (làm dấu tay chỉ hai
vai) và hào âm nằm giữa hai hào dương tượng trưng cho Đức Nhân tương ứng với
Ngôi Hai TCG (Ngôi Hai xuống thế làm người) là Tánh BI của PG.
Qua đó ta có thể nói: Mẫu người Văn Hóa
Việt phải là Mẫu người Quân Tử của NGUYÊN NHO hay VIỆT NHO (Khổng Tử nói người
quân tử ở phương Nam là vậy). Nguyên Nho là nền nho học có trước HÁN NHO, không
sử dụng ngôn từ mà sử dụng triết tự để diễn ý, tận thời Bách Việt khi chưa bị
Hán xóa sổ, như trong lời Kinh thờ Quốc Tổ Hùng Vương còn ghi lại:
“Kinh Châu Dương Việt hai miền
Triết tự văn hóa lưu truyền sử xanh”
2.
Về Bản Tính Hiền Lành Của Mẫu Người Văn Hóa Của GS Vịnh
Qua điều thấy được bằng mắt xuyền qua hình
ảnh Táo Quân hay con Li, mẫu người văn hóa Việt là mẫu người toàn diện chẳng
khác Ba Ngôi Thiên Chúa hay Phật Tam Thể của Phật Giáo. Cái khác biệt là cái phương tiện diễn ý: Hai
tôn Giáo lớn của nhân loại sử dụng ngôn ngữ, là lời qui ước, còn VHV diễn ý qua
tượng hình và tượng ý của con Lý Số LI hay tổ hợp Táo, nhờ đó ta có thể mạc
khải (thấy trực tiếp bằng mắt) Ba Ngôi Chúa hay Tam Tánh Phật. Ưu việt thay nền
văn hóa Việt Nho trong ý chỉ ra rằng “trăm nghe không bằng một thấy”!Chính nhờ
cái “văn hóa thấy” mới thấy được cái Ba Ngôi là Một và thấy được điểm tương
đồng của ba nền văn hóa lớn của nhân loại!
Cũng qua con lý số LI nầy ta sẽ biết được
cái lý được cảm nhận bằng cảm tính thông qua ngôn ngữ thông thường của GS Lưu
Văn Vịnh về Mẫu Người Hiền của VHV là cũng không sai, nhưng chưa đầy đủ, ông
chỉ nêu lên được tính BI hay tính Nhân là tính của hào âm nằm giữa của con LI (
) mà không thấy được tính Trí và tính Dũng của Tam Tính biểu trưng bằng ba hào
Dịch viết thành con LI.
3. Mẫu Người Của Văn Hóa Việt Là Mẫu Người
Nào? Cụ Trạng Trình Là Đại Diện Mẫu Người
Của Nền Văn Hóa Nào?
@ Về mẫu người Văn Hóa Việt: Xin thưa ngay
rằng: Mẫu người VHV là mẫu người của Tam Tính hay Tam Tài Việt qua hình ảnh Táo
Quân với tổ phợp Ba thành phần: Thiên Địa Nhân, xuyên qua hình ảnh con LI vừa nói,
nói rõ ra là mẫu người của Văn Hóa Việt là mẫu người Quân Tử theo tiêu chuẩn
Việt Nho. Điều nầy cũng có nghĩa: Đây là mẫu người Minh Triết Việt Nho và Nho
nằm trong định nghĩa “Thông thiên, Địa, Nhân viết Nho”. Nói rộng ra là: Nho là
người thông suốt cả chuyện trên Trời(là những qui tắc tự nhiên của Thiên Nhiên,
là hào Dương thứ ba trên cùng của con Li ), là người hiểu một cách cùng triệt
những qui luật biến hóa và tiến hóa của muôn loài, muôn sự xảy ra trên mặt Đất
(hào 1 Dương của con LI), cũng là người hiểu cách hành xử đúng hợp của con
Người đứng giữa Trời Đất (hào 2 âm của con LI). Ba hào đại diện cho ba Tài, gọi
là Tam Tài: Thiên Địa Nhân.
Có lẽ quí vị đều thấy tôi cứ nhắc, cứ nhấn
mạnh VIỆT NHO, điều nầy muốn lưu ý rằng nền Nho Học có hai nhánh: Nhánh của
Huyền (nguyên) là nhánh có trước của dòng Việt tộc (Bách Việt), không sử dụng
ngôn từ mà cơ cấu trên đồ hình và lý số Tiên Khôn (_ _), Rồng Dương (___), truyền ý qua tượng hình
và tượng ý, có con chủ đạo văn hóa là vài ba 2/3 Thủy Phong Tỉnh. Nhánh thứ hai
của Hán Nho về sau mang nặng tính duy dương, với con số chủ Đạo là tham lưỡng
3/2 “tham thiên lưỡng Địa nhi ỷ số”, nếu
chuyển sang Dịch số sẽ là con Phong Thủy Hoán (Hoán là cải sửa lại). Bởi cái
cải sửa mang tính duy dương, trọng Nam khinh nữ, trọng vua (giới cai trị) hơn
dân, đặt con 3 trên 2 thay vì 2 trên 3 theo kiểu Việt. Do vậy, Ông Cha ta cho
rằng Tàu đã đi lệch hướng, nên gọi họ là “Tàu chệch” (đi sai lệch với cái ban
đầu) tạo ra mẫu người “Quân Tử Tàu” bị người Việt xem thường, chế diễu.
Nghĩa của VIỆT NHO (nguyên nho) như vậy là
nghĩa thật tròn đầy gôm cả BI, TRÍ, DŨNG thì NHO không thể nào đồng nghĩa của
NHU trong nghĩa NHU NHƯỢC: NHO là Nhu, là Bi của PG và Bi không là bi ai để
thành nhược, bởi NHO (nhu) được soi sáng bởi Trí và được hổ trợ bởi Dũng trong
thế vững bền vững của chiếc “kiềng ba chân”:
Dù ai nói ngã nói nghiêng
Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân”
Kiềng ba chân là kiềng ÔNG TÁO VIỆT, là
con LI chỉ ra Tam Tài Ba Ngôi là Một vậy! Cũng vì vậy cái HIỀN đơn thuần, đứng
lẻ loi thì “Hiền” sẽ dễ thành “Hèn” vì thiếu vắng Trí, Dũng như thể chiếc kiềng
bị gãy mất hai chân mà thành “Hiền quá hóa ngu”
Thể hiện trên hiện thực, những bậc chân tu
rất hiền lành, những vị vua đầy lòng thương người, thương dân, thương nước và
thương cả kẻ thủ thù dưới thời Lý Trần là những Minh Quân HIỀN mà không HÈN, là
đại diện của mẫu người QUÂN TỬ đích thực của NGUYÊN NHO, đã dùng ‘cương nhu dĩ
giáo, bất báo vô Đạo’.
Hiền không hèn và Dũng cũng không thành vũ
phu nhờ Trí (thuộc Thiên hào 3 quái LI) và Dũng, Hùng thuộc Địa (hào 1 con LI)
kết hợp nhuần nhuyễn cùng Đức Nhân nằm giữa. Điều nầy chỉ ra: Mẫu Người Táo
Quân Việt Nho mới đúng là người Mẫu của Văn Hóa Việt
Ở thời cận đại, người hiền, Đấng chân tu
như Giáo Chủ Huỳnh Phú Số, đại diện chân chính của người hiền lương chịu thương
khó: “Ta chịu khổ là khổ cho nhân loại”, vẫn có được cái dũng của một đấng anh
hùng: “… Quyết một trận chùa am đóng cửa, tuốt gươm vàng lên ngựa xông pha, đền
xong nợ nước thù nhà, thiền am đóng của Phật Đà Nam mô (4)
Những mẫu người quân tử hiện thực tiêu
biểu trên được vậy hẳn nhờ thấm nhuần cái Đạo Lý Minh Triết Kiềng Ba Chân của
con LI phương Nam vậy!
@ Về mẫu người cụ Trạng: Cụ Trạng là Mẫu
Người Việt Nho với đủ Trí, Dũng và Bi
_ Cụ Trạng là một người TRÍ
Cụ Trạng là người thông nho, rất thông
nho, Ông đã viết Sấm Trạng đặt trên cơ sơ Nguyên Nho dựa trên đồ hình Đồ Thư
(hình căn bản cho Dịch Lý) như Ông nói ở phần mở đầu của Sách Sấm:
“Nước Nam từ thuở Hồng Bàng
Đổi thay cuộc thế, gian sang chuyển vần
Từ Đinh, Lê, Lý, Trần thuở trước
Đã bao lần vận nước đổi thay
Núi song thiên định đặt bày
Đồ Thư một quyển xem ngay mới rành”
Về Đức Trí: Trí tuệ Ông có được là nhờ vào
nghiên cứu sách Đồ Thư của Nguyên Nho Việt Dịch do đốt trúc gậy thần tạo nên
(5). Khổng Tử “học Dịch cho bớt sai lầm”, Cụ Trạng nghiên cứu Dịch để trí tuệ
thông sáng, biết mọi sự mọi việc trong qúa khứ, hiện tại và tương lai.
Nhờ TRÍ mà cụ Trạng thấy được cái nội tình
vào thời của Cụ như là việc “định tại thiên thư”(6). “Sông có khúc, người có
lúc” và đất nước thì có vận hạn của nó như thể được an bài vậy. Yếu tố nhân
định “Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều” (7) cũng cần đòi hỏi thời vị và
phải hội đủ “thiên thời, Địa lợi, Nhân hòa” thì việc mới thành tựu… Tình thế
đất nước vào thời Cụ không thể cứu chữa, cụ thấy được điều nầy nên không tham
chính mà trở về “vô vi”, sống với thiên nhiên, hưởng nhàn như cụ tâm sự:
“Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao
Thu ăn măng trúc đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao
Rượu đến gốc cây ta sẽ nhắp
Nhìn xem phú quí tựa chiêm bao”
_ Cụ Trạng là Một Hiền Nhân
Về Đức Nhân hay tâm lành: Qua sự thổ lộ
tâm tình của Cụ như trên, tưởng chừng như Cụ tiêu cực, sống ngoài lề xã hội,
buông xuôi phó mặc cho dòng đời để định mạng an bài, cụ đã “vô vi” (không làm).
Nhưng thực chất thì không phải vậy: Đó là cái thấy hời hợt bề ngoài, thực chất
Cụ đã “Vô vi nhi vô bất vi”. Cái trí của cụ sáng suốt đã đành, mà tâm của Cụ
cũng to lắm. Vì cái tâm lành mà cụ đã hành động không vì danh lợi riêng tư,
không vì danh, không lợi cho cá nhân (không ra làm quan để hưởng bỗng lọc), Cụ
không làm nhưng cũng không không không làm, nghĩa là Cụ có làm hay không gì
không làm!: “Vô vi nhi vô bất vi”. Cụ thấy được vận nước và đã làm chính trị
với ý nghĩa chân chính là giúp dân, giúp nước mà không cầu lợi cho mình:
Cụ lui về “vô vi” nhưng thấy dân khổ, nước
loạn cũng không thể bỏ mặc cho đời và vì bởi tâm lành nên Cụ Trạng đã thi hành
kế sách “vô vi nhi vô bất vi”:
Để ngăn chặn giặc Bắc lợi dụng tình hình
loạn li của nước ta mà sang xâm lấn, cụ cho học trò đến cố vấn cho nhà Mạc
chiếm lĩnh vùng Cao Bằng. Cụ giúp khuyên Chúa Trịnh núp dưới bóng nhà Lê để
hưởng phúc để giữ sự ổn định tạm thời. Cụ xúi dòng Nguyễn vào Nam nhằm mở mang
bờ cõi với câu: “hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân”… Chưa kể Cụ để sấm
truyền nhằm răn dạy và hướng dẫn những nhà chính trị đời sau.
_ Cụ Trạng và Đức Dũng
Về Đức Dũng: Dũng có hai loại, Dũng hướng
ngoại nhằm thắng người và Dũng hướng nội nhằm thắng mình, đó là cái dũng của
các bậc chân tu, chân nhân.
Cái Dũng hướng ngoại thì dễ thấy, nó được
lòng háo thắng, háo danh thúc đẩy: “làm nên đấng anh hùng đâu đó tỏ” (8)… “Làm
trai cho đáng nên trai, Xuống Đông, Đông tịnh, lên Đoài, Đoài tan”…
Cái Dũng hướng nội nhằm tu thân để thắng
mình, thắng cái thất tình lục dục trong ta, đó là cái: tham, sân, si, hỉ, nộ
ái, ố. Có được Đức Dũng thì thắng được tánh háo danh, tham lợi, sống chết không
làm run sợ, xem chúng như là qui luật tất yếu thản nhiên đón nhận nó. Không
trách Người, không oán Trời, hùng tráng đứng giữa Trời Đất mà không ỷ cậy vào,
giữ vững tư thế của Ngôi Nhân Hoàng “Trung lập nhi bất ỷ cường chi kiểu”
Đối với vật chất là lực hướng tâm, trong
con người là lòng nhân ái, tình thương yêu: “Thương người như thể thương thân”.
Cái dũng nầy chỉ những bậc Thánh Nhân mới có được: Kẻ phàm phu thường hướng cái
dũng của mình vào thắng người mà không chịu thắng mình.
Cụ Trạng quả là nhân tài gồm đủ Nhân, Trí,
Dũng, xứng đáng là mẫu người tiêu biểu của người quân tử Việt Nho, vượt trên
Người Hiền đơn thuần do cảm tính mà ta nghĩ về Cụ.
Chốt lại, vẫn biết viết theo kiểu không
chính qui, theo quan điểm phương tây thì khó tìm sự đồng thuận của học giả
chuyên nghiệp, nhưng những điều trình bày trên hẳn không là chuyện bịa đặt do
cảm tính cá nhân, mà là từ môn Lý Số xây dựng trên nền tảng của nền Văn Hóa
Việt Nho, tuy đã bị phai nhạt qua thời gian, mờ nhạt tưởng chừng như huyễn
hoặc, nhưng lại đầy tính khách quan của khoa học, vì nó y cứ trên các con toán
số… Mà, đã là toán số, thì tự thân nó đã mang tính khách quan rối! Điều nầy cũng có nghĩa nữa là: Bài viết không
là trước tác, mà là trước thuật: Tôi chỉ thuật lại cái vốn có sẵn từ trước chứ
không chế tác“Ngô dĩ Thuật nhi bất tác”!
Cái nền văn hóa giúp ta thấy thay vì nghe
nầy nghe chừng khó lọt tai (?), nhưng quen dần rồi sẽ thuận mắt và khi đã quen
mắt thì dễ đi đến đồng thuận vì tính khách quan của thể loại văn hóa nầy: Với
mắt thấy thì ai cũng sẽ thấy như nhau, cái còn lại chỉ là biết cách “đọc” bằng
cách nhìn thể loại văn hóa tượng hình, tượng ý để dẫn thẳng vào Đạo Lý, đúng
với qui trình đọc nó phải là: “Bỏ lời lấy tượng, bỏ tượng lấy ý, bỏ ý lấy Đạo”
Cái thói thông thường là: Muốn bỏ một thói
lề đã được chấp nhận từ trước, của nhiều người, qua nhiều thế hệ, không phải là
dễ dàng. Đây không phải là chuyện của ngày một, ngày hai mà đòi hỏi phải nhiều
thời gian và công sức của nhiều người, có khi đòi hỏi qua nhiều thế hệ nữa
không chừng, mới thuyết phục người khác, nhưng điều quan trọng ở đây là: Vấn đề
đặt ra và y cứ vào có khách quan hay không ? có để hướng tới sự chân chính
(Chân), có hướng về điều thiện lành (Thiện) và chúng ta có đủ kiên nhẫn (Nhẫn)
để đeo đuổi cái Thiện, cái Chân nầy chẳng ? Nói khác đi, ta có đủ bộ Tam Tài
Thiên Địa Nhân, Tam Tánh Bi Trí Dũng hay Ba Ngôi Cha Con và Thánh Thần, cũng là
tượng hình và tượng ý của mẫu người Táo Việt mà người quân tử Việt Nho chọn làm
hướng để đi theo chăng ?
Thật ra tác giả không mong sớm có đồng
thuận của nhiều người, được vậy thì càng tốt, còn không, chỉ mong được như là
một sự đóng góp nhỏ nhoi để tiếp tục truyền lại cái di chúc Văn Hóa Truyền
Dòng, để con cháu Tiên Rồng vốn “không mong ruộng cả ao liền mà mong cái bút
cái nghiên anh đồ”, hoặc của các cô gái chân quê vốn nặng lòng với Văn Hóa Tiên
Tổ:
“Em thực tình công danh không chuộng
Cửa nhà to, ao ruộng cũng không
Mà mong sao được tấm chồng
Văn hóa tiên tổ (9) người không hững hờ !”
(10)
Riêng tôi, tôi vững tin rằng Văn Hóa Việt
tuy liên tục bị các thế lực ngoại lai phản động đã nhiều lần bức tử, từ giặc
Tàu đến giặc Tây cho đến giặc Cộng … nhưng nền văn hóa nầy đã không chết, nó
đang hồi sinh, phục sinh … nhất định sẽ sống lại đễ dẫn nhân loại bước vào
thiên niên kỷ mới nầy.
Nguyễn Việt Nho
Chú
thích:
(1) Nguồn: Minh Triết Việt 2 trên mạng An
Việt, tác giả Nguyễn Việt Nho
(2), (3) Nguồn: Quốc Kỳ và Ý Nghĩa Của Nó
Qua Các Thời Dưới Lăng Kính Dịch Lý _Mạng An Việt _ Nguyễn Việt Nho
(4) Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ
(5)
Nguồn: Nguồn Gốc Kinh Dịch _ Văn Hóa Cổ Việt _ Nguyễn Việt Nho _ XB 2004
(6) Lý Thường Kiệt
(7) Kiều _ Nguyễn Du
(8) Nguyễn Công Trứ
(9) Văn Hóa Nguyên Nho hay Việt Nho được
diễn đạt bằng Đạo tư Ông Dương Càn (___) và Bà Âm Khôn (_ _)
(10) Thơ Nguyễn Việt Nho
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét