TS Mai Thanh Truyết – Vấn Đề An Toàn Vệ Sinh Thực Phẩm

Vấn
đề vệ sinh an toàn thực phẩm ở Việt Nam từ hơn 20 năm qua vẫn là một vấn nạn
lớn cho cả nước. Hàng ngày tin tức người dân bị nhiễm độc thực phẩm càng tăng
và tình trạng trên vẫn còn tồn tại và có nguy cơ phức tạp vì các nguyên tố tạo
ra nhiễm độc càng “tinh vi” hơn do hoá chất xử dụng trong thực phẩm tiêu dùng.
Trước
những diễn biến trên, thiết nghĩ cần phải xem lại các chương trình kiểm soát an
toàn thực phẩm của Việt Nam để từ đó chúng ta có cái nhìn chính xác hơn về công
cuộc quản lý thực phẩm tiêu dùng của những người có trách nhiệm hiện tại ở Việt
Nam, cũng như để bảo vệ thị trường bàn lẻ nơi đây, một khi phải chấp nhận sự
tham gia của doanh thương ngoại quốc sau năm 2009 đã được ghi trong cam kết WTO
vào tháng 1, 2007.
Những
con số thống kê cho năm 2013 ở Việt Nam
Vietnam
23,096,959
WARNING! (Details)
82,662,8002
US
Census Bureau, International Data Base, 2004
Theo
thống kê trên, tỷ lệ người dân bị ngộ độclà 28%, một con số quá cao. Nhưng từ
sau năm 2004 trở đi, vấn đề ngộ độc thức ăn ở Việt Nam ngày càng trãi rộng hơn,
khiến cho Bộ trưởng Y tế, Nguyễn Thị Kim Tiến phải cảnh báo nhân dịp Tết Giáp
Ngọ sắp đến là:“Thực phẩm Tết rất nguy hiểm, có thể chứa hóa chất độc hại như
trong rượu có thể có methanol, nước ngọt được pha chế bằng nước bẩn, trong bánh
ngot, thịt jambon, xúc xích v.v…chứa hóa chất độc hại”. Tuy không có con số
thống kê chính thức, nhưng trong năm qua, 2013, nhiều vụ ngộ độc tập thể được
ghi nhận như sau:
Viện
Pasteur Sài Gòn cảnh báo là thực phẩm không an toàn có thể là nguồn gốc ngộ độc
tập thể ở các xí nghiệp và trường học. Với 973 mẩu thức ăn được thử nghiệm, có
313 mẩu chứa vi khuẩn độc hại, trong đó có, 40% rau sống, 40% các loại cá, và
30% thịt gia súc.
Căn
cứ theo Hội Ung Thư, bịnh ung thư có nguyên nhân thực phẩm từ 2007 đến 2011 là
33.000 trường hợp, và hàng năm ung thư tăng trung bình 10% (theo Huỳnh Công
Hưng).
Giám
đốc Cục quan An toàn Vệ sinh Thực phẩm Sài Gòn, Bà Huỳnh Lê Thái Hòa tố cáo các
công ty thực phẩm dùng hóa chất trong dịch vụ nấu nướng để tăng thêm lợi nhuận.
Trên
bình diện quốc gia, Cục An toàn Thực phẩm đã phân tích 24.000 mẩu trên toàn
quốc năm 2013, trong đó, trên 25% mẩu chứa vi khuẩn gây tiêu chảy Coliform,
8,4% chúa borax (hàn the), và 7,9% chứa methanol (loại rượu làm chết người).
Sau
đây, xin liệt kê một số vụ ngộ độc tập thể trong năm qua:
Ngày
22/4, 328 người bị ngộ độc trong một đám cưới sang trọng ở Sơn La.
Ngày
10/10, 600 công nhân của Cty Wondo Vina ở Tiền Giang bị ngộ độc sau buổi ăn
trưa.
Ngày
16 và 18/10, 382 dân chúng ở Quảng Trị bị ngộ độc vì anh bánh mì sandwiches.
Ngày
18/10, 200 công nhân hảng giày Liên Phát, Bình Dương bị ngộ độc sau buổi ăn
trưa.
Ngày
25/12, trên 200 trẻ em trường Mẫu giáo Phước Thế, Bình Thuận bị ngộ độc sau
buo63u ăn chiều.
Những
nguyên nhân chính gây ra sự ngộ độc được liệt kê sau đây:
Khô
bò làm bằng thịt heo ung thúi.
Bún,
Miến đã được tẩy trắng và được “đánh bóng” bằng hóa chất như tinopal, oxalic
acid, và thuốc tẩy trắng (bleache), và được bảo quản bằng sodium sulfite.
Biến
chế thịt heo, thịt bò, thịt gà… chết, bị thối rữa làm thức ăn.
Nước
ngọt chứa vi khuẩn và nhiều loại nấm mốc.
Người
dân bị ngộ độc vì uống rượu chứa methanol
Với
tính cách thông tin, những vụ ngộ độc tập thể trong năm 2011 gồm 164 vụ, ảnh
hưởng lên 5.400 nạn nhân gây tử vong cho 33 người. Nguyên nhân là dùng kem sữa
và trên 45% trường hợp do thức ăn có chứa độc tố và hóa chất độc hại.
Trong
năm 2012, có 124 vụ, 4.660 nạn nhân và 40 người chết. Nguyên do là do ăn thịt
heo, gà quay (67%), xúc xích, lạp xường, jambon (36%), nem (87%), và các loại o
mai, xí m5ui (60%).
Từ
những tệ trạng trên, thử hỏi những người quản lý đất nước hiện tại đã áp dụng
biện pháp nào để ngăn chận tình trạng ngộ độc của người dân, cũng như các biện
pháp về an toàn vệ sinh thực phẩm có hữu hiệu không từ mấy chục năm qua?
Chương
trình kiểm soát an toàn vệ sinh thực phẩm ở Việt Nam
Đứng
về mặt lý thuyết, đây là một đề án đầy đủ về mục tiêu, phương châm, và những
biện pháp cụ thể trong việc bảo vệ nguồn thực phẩm cho người dân theo tiêu
chuẩn của các quốc gia tiến bộ trên thế giới. Chương trình nầy vẫn còn kéo dài
cho đến ngày nay, đặt dưới sự quản lý của Bộ Y tế.
Hiện
có 2.000 thanh tra hoạt động tích cực cho mùa Tết năm nay, và đã khám phá ra
13.000 vi phạm vệ sinh thực phẩm ở 47.000 cơ sở sản xuất thực phẩm toàn quốc.
Mục
tiêu của Chương trình nhằm bảo đảm phẩm chất vệ sinh an toàn cho người tiêu
dùng.
- Về phương châm là cần phải xã hội hoá các
hoạt động vì phẩm chất vệ sinh an toàn thực phẩm (ATVSTP) từ trung ương đến địa
phương.
- Về việc thi hành cụ thể, ATVSTP được
quản lý chặt chẽ qua Luật thực phẩm, hệ thống thanh tra thực phẩm và hệ thống
kiểm nghiệm thực phẩm được thành lập khắp nơi.
Trong
Chương trình, công cuộc nghiên cứu khoa học cũng được chú ý qua việc nghiên cứu
về mức độ lây lan do thực phẩm, mối quan hệ thực phẩm và sức khỏe v.v…
Ở
Việt Nam có hơn 400 ngàn cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm có đăng ký và ước
tính trên dưới 100 ngàn sơ sở “lậu”
trong đó khoảng 90% có quy mô vừa và nhỏ (dịch vụ trong gia đình). Có hơn 220
làng nghề sản xuất thực phẩm truyền thống với những tên quen thuộc như tương
Bần, giò chả Ước Lễ, bánh cuốn Thanh Trì…
Vì
tính đa dạng của sản phẩm thực phẩm, cho nên công cuộc quản lý ATVSTP rất phức
tạp và có nhiều nguy cơ không bảo đảm ATVSTP trên tòan quốc. Qua một cuộc điều
tra của Cục An toàn Thực Phẩm tiến hành vào năm 2005 trên 3 xã có làng nghể sản
xuất truyền thống ở miền Bắc, có những con số báo động như sau: gần 30% cơ sở
sản xuất chế biến thực phẩm có vị trí sát với chuồng nuôi gia súc; 64% cơ sở
dùng giấy báo để gói thực phẩm; 82% số người trực tiếp tham gia vào việc sản
xuất, chế biến thực phẩm không được đào tạo có bài bản; và hơn 50% chưa hề khám
sức khoẻ lần nào.
Do
đó có thể nói việc ô nhiễm thực phẩm từ các môi trường trên tất cao.
Cũng
theo cuôc điều tra của Trung tâm Y tế Dược phẩm Tp Sài Gòn năm 2004, có 64% mẫu
chả lụa, chả giò, mì sợi có chứa hàn the, 28% bánh phở có chứa formol. Qua năm
2005, tỷ lệ tương ứng cùa hai nhóm trên là 72% và 45%.
Do
đó, có thể kết luận là Chương trình ATVSTP đề ra không được áp dụng hữu hiệu và
tình trạng vi phạm ATVSTP ngày càng phổ biến hơn gây ra tình trạng tệ hại cho
đến ngày hôm nay qua các sự kiện điển hình kể trên.
Chương
trình Mục tiêu quốc gia ATVSTP
Thủ
tướng CSVN đã phê duyệt Chương trình Mục tiêu Quốc gia An Toàn Vệ Sinh Thực
phẩm (ATVSTP) giai đoạn 2006-2010 nhằm xây dựng và nâng cao năng lực hệ thống
quản lý ATVSTP, bảo đảm phù hợp với tiêu chuẩn thế giới góp phần bảo vệ sức
khỏe và quyền lợi người tiêu dùng thực phẩm.
Những
chỉ tiêu trong Chương trình rất lạc quan như đến năm 2010 có 90% người sản
xuất, 80% người tiêu dùng hiểu biết đúng, thực hành đúng về ATVSTP, cũng như
80% tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về ATVSTP sẽ phải phù hợp với tiêu chuẩn thế
giới.
Đặc
biệt, diểm tới hạn (threshold limit) của từng hoá chất dùng trong thực phẩm sẽ
được xác định, cùng các biện pháp phòng ngừa nhiễm độc cũng được nêu ra trong
Chương trình.
Để
khai triển Chương trình có sáu dự án gồm:
1- Dự án nâng cao năng lực quản lý phẩm chất
ATVSTP,
2- Dự án thông tin giáo dục truyền thông bảo
đảm phẩm chất ATVSTP;
3- Dự án tăng cường kiểm nghiệm phẩm chất,
xây dựng hệ thống giám sát ngộ độc thực phẩm,
4- Dự án bảo đảm ATVSTP trong sản xuất, sơ
chế, bảo quản, chế biến nông sản thực phẩm,
5- Dự án bảo đảm an toàn dịch bịnh, an toàn
môi trường và an toàn thực phẩm,
6- Dự án bảo đảm ATVSTP thức ăn đường phố.
Chương
trình được hiện trên phạm vi cả nước với nguồn vốn tương đương 78 triệu Mỹ kim
huy dộng từ ngân sách trung ương, địa phương, và vay vốn nước ngoài cùng xin
viện trợ.
Qua
sáu đề án trên, nếu được khai triển đúng mức chắc chắn tình trạng ATVSTP sẽ
được cải thiện rất nhiều.
Tuy
nhiên, trên thực tế tình trạng trên ngày càng tồi tệ, và tin tức hàng ngày về
ngô độc thực phẩm càng tăng.
Trong
lúc đó, sản phẩm xuất cảng sang ngoại quốc đã bị trả về nguyên quán ngày càng
thường xuyên hơn, đặc biệt trong những năm gần đây, cả Bắc Mỹ và Liên hiệp Âu
Châu hạn chế và kiểm soát gắt gao những mặt hàng sản xuất từ Việt Nam. Diển
hình là vụ tiêu đen bị trả về trong năm 2010, qua việc thu hồi hàng chục ngàn
tấn súc xích của Cty Daniel.
==================================
Somewhere
in the 135,000 tons of fresh black pepper Vietnam shipped around the world last
year (2010) is the end of a supply chain that is making people sick in the United
States.
Brooklyn’s
Wholesome Spice, which until recently had Rhode Island’s Daniele Inc. as a
client, got its black pepper from a supplier in Vietnam.
Sold
by Wholesome Spice to Daniele Inc., the imported pepper was contaminated with
Salmonella. Daniele, Inc. used the
pepper to coat its salami, and Americans are becoming sick.
An
outbreak of Salmonella Montevideo associated with brands of salami made by
Daniele has now spread to 42 states and sickened 203.
==============================================
Qua
những thông tin nêu trên, thêm một lần nữa Việt Nam lại tiếp tục đi con đường
“chủ nghĩa hình thức” nghĩa làvẫn tiếp tục phổ biến lên những chương trình có
quy mô quốc gia để tăng cường ATVSTP với kinh phí và nhân sự đồ sộ và đưa ra
những chỉ tiêu, mục đích rất lạc quan không căn cứ vào một dữ kiện nào cả. Đó
là những con số chết, chắc chắn sẽ không bao giớ đạt được chỉ tiêu đề ra.
Nhưng
trên thực tế, thống kê cho thấy tình trạng vệ sinh thực phẩm chẳng những không
tiến bộ mà còn tệ hại hơn nữa. Số nạn nhân ngày càng tăng đồng biến cùng với số
tử vong.
Ngay
cả những cơ quan kiểm nghiệm hàng xuất cảng cũng không giữ được tính trung thực
trong báo cáo.Chính điều nầy sẽ làm thiệt hại uy tín của Việt Nam trên trường
quốc tế rất nhiều. Một thí dụ cụ thể là khi vào mạng của Bộ Thuỷ sản và xem
những thông tin về việc kiểm nghiệm các lô hàng xuất cảng hàng tháng, hầu hết
tất cả các lô hàng đều chứa dư lượng đủ loại thuốc kháng sinh, cùng vi khuẩn
Coliform, Samonella…nhưng trong phần kết luận của bảng phân tích đều được ghi
đại loại như sau:”Sự hiện diện của vi khuẩn và những hoá chất kháng sinh tìm
thấy trong các mẫu trên vẫn còn nằm trong mức an toàn cho phép.
Đề
nghị hướng giải quyết
Đứng
trước tình trạng không kiểm soát ATVSTP ở Việt Nam như hiện nay, một số đề nghị
sau đây hy vọng trong tương lai, một khi nước nhà thoát khỏi cơ chế chuyên
chính vô sản, ngõ hầu hạn chế được một phần nào nguy cơ nhiễm độc thực phẩm:
Trước
hết, cần phải truy diệt tận gốc nguồn cung cấp hoá chất, các loại kháng sinh bị
cấm sử dụng trong thực phẩm, cùng các phẩm màu độc hại v.v… Ở Việt Nam ai cũng
biết là chợ Kim Biên là đầu mối phân phối của đủ các loại kể trên.
Việt
Nam chưa có khả năng sản xuất những hoá chất trên và nguồn cung cấp có thể nói
là trên 90% nhập lậu từ Trung Cộng. Nếu chận đứng được nguồn cung cấp nầy,
chúng ta có thể hạn chế tối đa những vụ trúng độc nhất là trong những bửa ăn
tập thể. Hàng ngày trên các cửa biên giới Trung Việt có hàng ngàn tấn hàng hoá
nhập lậu.
Các
cơ sở sản xuất hay biến chế thực phẩm của Việt Nam phần nhiều có quy mô nhỏ và
còn trong tình trạng lỗi thời, do đó, nhà cầm quyền tương lai cần phải có những
biện pháp giúp đở như cho vay vốn, ưu đãi về thuế để họ có khả năng cải thiện
quy trình sản xuất và cơ giới hoá việc sản xuất hầu nâng cao phẩm chất của
thành phẩm cùng việc làm cho giá thành hạ thấp xuống.
Những
chương trình về an toàn thực phẩm cần phải được phổ biến rộng rãi để người quản
lý và công nhân có thêm thông tin về ATVSTP hầu áp dụng cho cơ sở theo đúng
tiêu chuẩn yêu cầu.
Đứng
về phương diện kiểm soát và quản lý ATVSTP, công nhân viên chức có trách nhiệm
cần phải được huấn luyện nghiêm chỉnh nghiệp vụ hướng dẫn, kiểm soát và hành sự
với một tinh thần trong sang cùng với đạo đức nghề nghiệp vững chắc, chí công
vô tư, tránh tệ trạng móc ngoặc, bao che, hối lộ…
Làm
được những điều trên, hy vọng tình trạng an toàn vệ sinh thực phẩm ở Việt Nam
sẽ có cơ may cải thiện thêm lên và người dân sẽ không còn bận tâm nhiều đến vấn
đề ATVSTP nữa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét