Thứ Hai, 2 tháng 6, 2014

Hoạt đầu chính trị












Nguyễn Tấn Dũng: tên Hoạt đầu chính trị




Vũ Đông Hà (Danlambao) - Giữa bản đại hòa tấu toàn dân nghe chăng, sơn hà nguy biến, hận thù đằng đằng, nên hòa hay bại râm rang khắp dãi đất còng lưng chữ S, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhảy lên sân khấu... Manila hướng về đất tổ cất giọng sơn hà nguy biến, nên hòa hay kiện. Bên này mảnh đất hình chữ S lắm lừa nhiều ma, rầm rầm tiếng vỗ tay hưởng ứng ca ngợi Thủ tướng muôn năm - thiếu điều tung hô tổng thống Nguyễn Tấn Dũng muôn năm.



Nhớ lại:

Ngày đăng quang Thủ tướng đăng đàn đóng vai một lãnh đạo cấp tiến - không dẹp được tham nhũng tôi sẽ từ chức. Trên mảnh đất lắm lừa, nhiều con ma vỗ tay rầm rầm, báo lề đảng chém gió mát cả mùa hè. Hai nhiệm kỳ sau Thủ tướng trở thành thủ lãnh một bầy sâu lổm ngổm khắp bờ khắp bụi của hệ thống ký sinh trùng mang tên nhà nước.


Còn nhớ:

Những ngày Tiên Lãng. Suốt một tháng dài báo lề đảng được bật đèn xanh cho chửi thoải mái, chửi như chưa bao giờ được chửi đám quan lại cộng sản Hải Phòng cướp ao cá Đoàn Văn Vươn. Cả nước phẫn nộ chắc còn hơn sóng biển Đông bao quanh dàn khoan của khựa. Cựu chủ tịch nước, đại tướng, thái thượng hoàng Lê Đức Anh đích thân đăng đàn dọn bãi cho Thủ tướng. Một tháng sau, thủ tướng xuất hiện với những cái tít to đùng trên báo đảng tiền hô hậu ủng: Thủ tướng Nguyễn tấn Dũng yêu cầu làm rõ..., Tiên lãng - Kỳ vọng của thủ tướng, Uy tín của Thủ tướng tiếp tục được nâng cao, Người dân Tiên Lãng cám ơn thủ tướng...
Và thủ tướng cất cao tiếng hát của loài lừa: "Chính quyền Tiên Lãng đã sai từ đầu tới cuối về quyết định thu hồi đất, quyết định cưỡng chế, việc thực thi cưỡng chế, cách ngụy biện cho những sai lầm, sự vô cảm trước nỗi khổ của người dân, sự quanh co khi phải đối diện với sự thật." 

Mãnh đất lắm lừa nhiều ma vỗ tay vang dội từ thành xuống xã. Báo lề đảng chém gió mát cả nước. Mát cho đến lúc Đoàn Văn Vươn, Đoàn Văn Quý, Đoàn Văn Sịnh, Đoàn Văn Vệ vào tù - người 5 năm, kẻ 2 năm. Và Đỗ Hữu Ca - tên trùm băng đảng Hải Phòng trong chiến dịch "đốt phá chòi nuôi cá" - được thăng hàm Thiếu tướng.
Và cứ thế, còn nhiều lắm... trong suốt 2 nhiệm kỳ ngồi ghế Thủ, Nguyễn Tấn Dũng với một đội ngũ tiếp thị nhà nghề học được từ thị trường và chính trị phương tây đã sử dụng phương thức chụp thời cơ hoặc tạo thời cơ để khi lòng dân bất mãn cùng cực và có sẵn vài con tốt nhỏ đang bị dư luận căm phẫn, ông ta xuất hiện và hành xử như một "minh quân" hay một nhà lãnh đạo "biết điều".

Khi biển đông dậy sóng và lòng người bất mãn ông đem hải quân VNCH, chính quyền VNCH ra để vuốt trong phiên họp Quốc hội 25/11/2011.

Giữa lúc tình trạng vi phạm nhân quyền leo thang, nhiều blogger bị bắt giam bởi điều 258, thương lượng TPP đến hồi nóng bức, ông gửi thông điệp đầu năm (1) kêu đọi "đảng ta" phải nắm chắc ngọn cờ dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

Ngày 2 tháng 5 năm 2014 vừa qua, Tàu cộng xâm lược Việt Nam bằng giàn khoan HD-981 cộng với hơn 130 tàu đủ loại. Cả nước người người phẫn nộ. Những cuộc biểu tình độc lập của dân, biểu tình có tổ chức của đảng, biểu tình có đốt phá, cướp của, giết người của thế lực đen trong đảng bùng nổ. Thủ tướng im lặng như tờ cho thời cơ chín mùi. Cứ để cho những tên ngu dốt như Phùng Quang Thanh mở miệng cóc chết “Đảng, Chính phủ và quân đội Việt Nam cực kỳ coi trọng phát triển đoàn kết và hữu nghị với Trung Quốc, quân đội Việt Nam sẽ không áp dụng hành động làm phức tạp tình hình, sẵn sàng cùng với Trung Quốc duy trì trao đổi về các vấn đề liên quan...” thì khi xuất hiện, phát biểu của thủ tướng sẽ ngời sáng như minh châu trời đông.
Ngày 21 tháng 5, tại Diễn đàn Kinh tế Thế Giới tổ chức ở Manila, thời đã chín và cơ đã mùi, thủ tướng xuất hiện, lên án Tàu cộng (2):
“Từ ngày 01/5/2014 đến nay, Trung Quốc đã sử dụng hơn 130 tàu, có cả tàu quân sự và máy bay bảo vệ để hạ đặt giàn khoan dầu vào vị trí sâu hơn 80 hải lý trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam theo Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982. Đây là sự vi phạm đặc biệt nghiêm trọng luật pháp quốc tế và Tuyên bố Ứng xử của các Bên ở Biển Đông (DOC) mà Trung Quốc là một bên tham gia ký kết. Hành động này của Trung Quốc đã và đang đe dọa trực tiếp đến hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn, tự do hàng hải và hàng không ở Biển Đông.”

Ông đã dùng buổi phỏng vấn của hãng thông tấn AP để phát biểu:
“Việt Nam luôn mong muốn có hòa bình, hữu nghị nhưng phải trên cơ sở bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, vùng biển, và nhất định không chấp nhận đánh đổi điều thiêng liêng này để nhận lấy một thứ hòa bình, hữu nghị viển vông, lệ thuộc nào đó”.

Hai câu này được trích dẫn nhiều nhất bởi báo lề đảng và những người ca tụng ông Thủ tướng của đảng.

Tuy nhiên, hãy nhớ lại phát biểu của ông tại diễn đàn an ninh Đối thoại Shangri-La vào năm ngoái khi ông gián tiếp lên án Trung Quốc: 
“Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ từ biển Hoa Đông đến biển Đông đang diễn biến rất phức tạp, đe dọa hòa bình và an ninh khu vực, trước hết là an ninh, an toàn và tự do hàng hải đang gây quan ngại sâu sắc đối với cả cộng đồng quốc tế. Đâu đó đã có những biểu hiện đề cao sức mạnh đơn phương, những đòi hỏi phi lý, những hành động trái với luật pháp quốc tế, mang tính áp đặt và chính trị cường quyền” 
và lời khẳng định của Thủ tướng: 
“cùng nhau xây dựng và củng cố lòng tin chiến lược vì hòa bình, hợp tác, thịnh vượng là lợi ích chung của tất cả chúng ta.” (3
cũng từng đã được tung hô vàng trời.
Ông đã thực sự làm gì trong vai trò Thủ tướng sau gần một năm tuyên bố tại Shangri La trước cái gọi là “biểu hiện đề cao sức mạnh đơn phương, những đòi hỏi phi lý, những hành động trái với luật pháp quốc tế, mang tính áp đặt và chính trị cường quyền”
Câu trả lời: HD-981


Nó không còn là một biểu hiện đề cao sức mạnh đơn phương hay đòi hỏi phi lý. Nó là một hành vi xâm lược cụ thể, trắng trợn, ngang nhiên của Tàu cộng.
Nhiều người đề cao phát biểu của ông Nguyễn Tấn Dũng tại Manila. Tuy nhiên, hãy nhìn kỹ lại:


1. Bất kỳ một nhà ngoại giao hạng bét nào trên thế giới, chưa nói đến thủ tướng quốc gia, đều phải phát biểu như ông Dũng về hành vi xâm lược đối với quốc gia của họ, tương tự như Tàu cộng xâm lược Việt Nam bằng giàn khoan HD981. Toàn bộ sự việc đã được hàng ngàn blogger viết đến trong suốt gần 3 tuần ông im lặng. Và họ nói chính xác, đúng với bản chất của vụ việc hơn nội dung phát biểu của ông Thủ tướng - “Đây là sự vi phạm đặc biệt nghiêm trọng luật pháp quốc tế và Tuyên bố Ứng xử của các Bên ở Biển Đông (DOC) mà Trung Quốc là một bên tham gia ký kết. Hành động này của Trung Quốc đã và đang đe dọa trực tiếp đến hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn, tự do hàng hải và hàng không ở Biển Đông.” Họ nói đơn giản: Đây là hành vi xâm lược của Tàu cộng; đây là đe dọa nghiêm trọng đến chủ quyền của Việt Nam.


2. Bất kỳ người lãnh đạo nào cũng phải nói quốc gia của họ mong muốn có hòa bình, hữu nghị, phải bảo vệ chủ quyền bằng mọi giá và không đánh đổi chủ quyền bằng “hòa bình, hữu nghị viển vông, lệ thuộc nào đó”. Không có một nhà ngoại giao hạng tồi và vô liêm sỉ nào tuyên bố ngược lại tinh thần trên. 
Tuy vậy, Thủ tướng được nhiều người hoan nghênh vì ông làm đánh vào được tâm lý của nhiều người dân Việt Nam:

- Lãnh đạo cao cấp của đảng CSVN hèn mạt không dám mở miệng nói lên một sự kiện xâm lược mà cả thế giới đều biết. Bây giờ chỉ có ông Dũng bừng sáng như một tên chột trong một đám mù.

- Gián tiếp gửi thông điệp ông “có gì thì gì đi nữa” nhưng không phải là một kẻ thân Tàu, không phải là người sẵn sàng đánh mất chủ quyền vì “quốc sách nô lệ 16 vàng 4 tốt”; và bây giờ chuyện độc tài, tham nhũng là chuyện nhỏ, chuyện cứu nước mới là đại cục.

Nhưng người ta vô tình hay cố tình xem nhẹ, phớt lờ, bỏ qua những phát biểu sau đây - mới là những “thông điệp chiến lược” của một chính trị gia hoạt đầu gửi đến “đối tượng” cần nhắn gửi:
“Chúng tôi kiên định và kiên quyết bảo vệ chủ quyền của mình bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế.”
“Việt Nam không tham gia bất cứ liên minh quân sự nào để chống lại một quốc gia khác. Đây là chính sách đối ngoại nhất quán của Việt Nam.”
“Việt Nam không bao giờ đơn phương sử dụng biện pháp quân sự, không bao giờ khơi mào một cuộc đối đầu quân sự, trừ khi bị bắt buộc phải tự vệ.”

Đây mới là thông điệp thể hiện "chính sách hành động" của chính phủ CHXHCN.
Đây mới là thông điệp làm hài lòng quân xâm lược: nó muốn nói gì thì nói để củng cố địa vị chính trị bản xứ của chúng, nhưng cái lỏi phải “đồng lòng cùng chính phủ... Bắc Kinh”.

Kết hợp 3 câu trên sẽ thấy Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng - đằng sau những phát biểu ngoại giao, mị được một số người Việt Nam lẫn ngoại quốc - đã đặt Việt Nam vào ngỏ cụt hiểm nghèo:


- Nhất định không chống trả cho dù 1 giàn khoan hay 10 giàn khoan hoặc bất kỳ một sự chiếm đóng nào của Tàu cộng trừ khi Tàu cộng nỗ súng trước và Việt Nam chỉ bắn trả để tự vệThế nên mới có màn bán nhau ướt đẫm cả biển Đông.
- Nhất định đặt Việt Nam vào thế một nước nhỏ, lẻ loi đơn độc đối đầu với một cường quốc xâm lăng khổng lồ là Tàu cộng. Đơn phương đồng nghĩa với vô phương.
- Đặt Việt Nam vào đúng thế trận chiến lược của Tàu cộng: biến chủ quyền của Việt Nam thành vùng tranh chấp, biến vùng tranh chấp thành vùng khai thác của Tàu cộng và sau đó cùng lắm thì kiện tụng về một sở hữu quyền “chưa rõ của bên nào”. Kết quả tệ nhất đối với Tàu cộng: vùng đất, biển của Việt Nam trở thành vùng “chủ quyền chung” của hai nước để cùng khai thác. Với một đất nước có nhiều tài lực, nhân lực như Tàu cộng, với chính sách đổ tiền, đổ người vào để khai thác, định cư, an sinh lập nghiệp... vài chục năm sau vùng chủ quyền chung đó sẽ trở thành chủ quyền riêng không chối cãi của Tàu cộng.
Nếu tình báo Hoa Nam muốn làm một cuộc đảo chánh Ba Đình thì con lừa này sẽ được chọn làm tổng thống, là lãnh tụ được lòng nhiều ma trên mảnh đất bên kia biên giới là nhà, lắm lừa nhiều ma này.

*

Con đường chúng ta đi

Tình trạng cực kỳ đen tối của đất nước ngày hôm nay không đến từ bối cảnh của một quốc gia nhỏ, trong đó chính phủ cùng với nhân dân qua nhiều năm tháng đã một lòng tìm mọi cách để chống lại một nước xâm lược to lớn. Ngược lại, nó là kết quả của gần một thế kỷ đến từ một tập đoàn cai trị được ra đời nhờ bàn tay của bà mụ Tàu cộng, hoạt động theo Tàu cộng, sinh tồn nhờ Tàu cộng và nô lệ cho Tàu cộng. Nguyễn Tấn Dũng - một đảng viên cộng sản leo lên được chức thủ tướng là một trong những kẻ trung thành nhất của tập đoàn nô lệ ngoại bang đó. Ông ta là một trong những đầu não của bộ máy cai trị “hèn với giặc và ác với dân” này.

Trước tình trạng hiểm nghèo của tổ quốc, chỉ có những người muốn đất nước độc lập, hòa bình, tự do nhưng không muốn sướt một móng tay, chảy một giọt máu mới đặt niềm tin vào những kẻ cai trị độc tài, tham nhũng, mị dân đứng ra bảo vệ đất nước và chiến đấu cho sự sống còn của đất nước. Những người như Điếu Cày, Việt Khang, Trần Vũ Anh Bình, Đinh Nguyên Kha, Đỗ Thị Minh Hạnh, Nguyễn Xuân Nghĩa, Bùi Thị Minh Hằng... đã không đặt niềm tin, hy vọng vào những kẻ đó. Hàng ngàn người xuống đường biểu tình yêu nước trong những năm qua không thể nào đặt niềm tin, hy vọng vào một hoạt đầu chính trị đã ra công văn và chỉ thị cho công an trấn áp mọi nỗ lực phản đối quân xâm lược, cấm đoán, đánh đập, bắt giam người biểu tình yêu nước chỉ vài ngày trước khi cánh màn nhung chính trị mị dân ở sân khấu Manila được kéo ra.

Con đường trước mặt chỉ có chông gai và thử thách. Không còn chọn lựa nào khác đối với dân tộc Việt Nam sau bao năm tháng bị cai trị bởi một đảng độc tài và nô lệ ngoại bang.
Con đường ấy không phải là lần đầu tiên mà đất nước hơn 4000 năm phải dũng cảm tiến bước và chấp nhận những đớn đau, mất mát, hy sinh để thực sự sống còn trong độc lập và danh dự. 750 năm về trước đã có con đường ấy - con đường mang tên: Diên Hồng.


_____________________________________



Cu Làng Cát - Mọi thứ đã kích hoạt

Thứ Hai, ngày 26 tháng 5 năm 2014


Từ ngày Trung Quốc hạ đặt giàn khoan trái phép trong vùng biển chủ quyền Việt Nam, mọi thứ đã kích hoạt. Mọi thứ đã thay đổi. Tất cả, tất cả chúng ta đều vĩnh viễn thay đổi cách suy nghĩ, cách tư duy, cách tiếp cận, cách nhìn nhận. Mặc dù trong góc khuất nào đó, có không ít người vẫn ít nhiều muốn nghĩ về một điều gì đó “lành” hơn, nhưng thực tế đã buộc thay đổi vĩnh viễn về ý thức.


Lòng yêu nước đã được kích hoạt trở lại sau vụ cắt cáp tàu Bình Minh 02 trước đây. Lúc đó cộng đồng mạng trở thành làn sóng phản đối rầm rộ và truyền thông đưa tin theo “chừng mực”. Nhưng ngày nay, với giàn khoan trái phép của Trung Quốc hạ đặt trong vùng biển chủ quyền Việt Nam, một cấp độ phản ứng lớn hơn cả trong nước và thế giới. Lòng yêu nước của người Việt trong và ngoài nước bùng lên mạnh mẽ, chỉ cần một “công tắc đẩy”, mọi thứ đều có thể lay chuyển. Từ đồng bằng lên miền núi, từ làng biển đến trung du, đâu đâu cũng một lòng sục sôi.
Một người phụ nữ ở TP. Hồ Chí Minh đã tự thiêu để lại các di thư phản đối Trung Quốc, bà nêu lên khí phách Hai Bà Trưng xưa để những ai có chí hướng nhớ lấy. Hành động của bà là hệ quả tất yếu của sự ngang ngược, đè nén từ “máu đại Hán” đe dọa không gian sinh tồn của người Việt trong nhiều năm qua.

Tất cả mọi việc đều kích hoạt từ sự kiện giàn khoan trái ngược. Lãnh đạo cấp cao có các chuyến con thoi với các nước trong khu vực và những tuyên bố từ Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho thấy không trông đợi gì vào thứ “viễn vông” vô bổ và vô tích sự. Các phát biểu mạnh mẽ của Thủ tướng trên diễn đàn ASEAN hay từ philippine đều mang đến sắc thái khác trước đây rất nhiều. Chỉ rõ Trung Quốc là mối đe dọa biển Đông, điểm thấu Trung Quốc nói khác xa với làm từ một vị nguyên thủ cấp cao là sự khác biệt rất lớn so với thời gian của những năm qua.
Chủ tịch nước hay Chủ tịch quốc hội cũng có những phản ứng tương thích trước diễn đàn quốc dân. Những vị nhân sĩ trí thức, đến giới nghiên cứu chuyên môn, hoặc về những cá thể công dân đâu đâu cũng một quan điểm nhìn nhận sự tráo trở của Trung Quốc trong hành vi bất trắc xâm phạm chủ quyền Việt Nam. Nếu có một hội nghị Diên Hồng lần nữa, chắc chắn không chỉ những vị cao niên tâm vững như bàn thạch đả thông tư tưởng cho các thế hệ con cháu về lịch sự chống ngoại bang phương Bắc mà những bậc lão thành cũng thay đổi nhân sinh quan, thế giới quan đã mang theo mấy chục năm nay.

Bộ ngoại giao cũng hoạt động năng nổ hơn với các cuộc họp báo quốc tế. Những lời phát ngôn đanh hơn, thép hơn và rõ ràng hơn nhiều so với thời kỳ tàu Trung Quốc đánh phá tàu cá dân sự ngư dân nhưng vẫn phải nuốt bồ hòn gọi là “tàu lạ”.
Một sự cởi trói trong thế giới quan và nhân sinh quan từ tất cả mọi giai tầng xã hội đã hét lên rõ ràng, kêu lên rõ ràng, điểm lên rõ ràng, chỉ mặt rõ ràng, ghi vào lịch sử một cách rõ ràng danh từ Trung Quốc “nói khác với làm”. Khi một nhà khoa học hỏi ông bình luận thế nào về 16 chữ vàng và 4 tốt, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đã đáp lời không do dự: “Tôi nghĩ vàng cũng tốt nhưng kim cương còn tốt hơn”.
Kim cương ở đây là gì? Là dòng dân, là đất nước, là quốc gia, là dân tộc. Kim cương ở đây không phải là thứ “viễn vông” mà có thật. Kim cương ở đây không phải là thứ “lệ thuộc” mà là sự quý báu của các đối tác trên bình diện đa phương. Kim cương ở đây không phải là thứ giao hảo với kẻ cướp, mà kim cương ở đây là thứ thuộc về lòng dân, thuộc về nhân dân. Chính nhân dân chỉ ra viên kim cương đó, một cách bền bĩ, mài giũa một cách hòa hiếu, nhưng sắc cạnh vô cùng, long lanh vô cùng, nhạy bén vô cùng, bền gan vô cùng, chính nghĩa vô cùng. Kim cương đó cũng là khí phách tổ tiên cha ông ngàn đời đánh bại giặc phương Bắc truyền lại.

Tất cả đều kích hoạt bởi một thứ năng lượng cố kết toàn dân, “lòng yêu nước’. Từ những tộc người nhỏ bé trên những rặng núi xa xôi đến những làng xóm hẻo lánh ở biển chân trời, từ bao miền quê còn nghèo khó đến những đô thị hiện đại đều chung một tấm lòng. Đó là những bức trường thành chống đỡ mọi hiểm ác từ kẻ lớn luôn rắp tâm thôn tính đất đai hương hỏa nước Việt.

Người ta hy vọng rằng, sự “viễn vông” sẽ được cảnh tỉnh, bị đẩy lùi, được đả thông để tránh đi nhiễu sự cho dân tộc. Nhưng khi điều “viễn vông” cố bám lấy, chắc chắn nó bị tiểu phạt bởi chính bàn tay của người nước Nam vốn là con cháu của hào khí Đông A của khí phách Bặch Đằng giang, của phòng tuyến Như Nguyệt, của Chi Lăng-Xương Giang, của Ngọc Hồi-Đống Đa...


Cu Làng Cát





Hà Tường Cát tổng hợp - HD981: 

Ba tuần lễ đối đầu Việt – Trung


Thứ Hai, ngày 26 tháng 5 năm 2014


Vụ giàn khoan nước sâu hoạt động ở Biển Đông, cho đến nay chưa có dấu hiệu đi đến kết thúc với giải pháp nào. Sau đây là những diễn tiến từng ngày trong 3 tuần lễ qua.


Ngày 2 tháng 5: Trung Quốc loan báo giàn khoan Haiyang Shiyou 981 (Hải Dương Thạch Du) được đưa đến hoạt động ở Biển Đông tại khu vực phía Nam quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) trong 3 tháng từ 2 tháng 5 tới 15 tháng 8, 2014.
Trung Quốc lập luận vị trí giàn khoan ở cách đảo Tri Tôn, quần đảo Hoàng Sa, 17 hải lý; cách Hải Nam 180 hải lý về phía Nam; thuộc vùng biển của Trung Quốc.
Việt Nam khẳng định giàn khoan hạ đặt cách đảo Lý Sơn tỉnh Quảng Ngãi 120 hải lý về phía Đông, hoàn toàn nằm trái phép trong vùng biển đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa Việt Nam. Vị trí này thuộc trong lô dầu khí đã được Việt Nam đánh số 143, nơi biển sâu khoảng hơn 1,000 mét, chưa thăm dò và khai thác, nhưng đánh giá là ít dầu khí.
Mặc dầu Trung Quốc đã sử dụng vũ lực chiếm Hoàng Sa của Việt Nam Công Hòa từ 1974 nhưng Việt Nam không từ bỏ chủ quyền ở quần đảo này. Hơn nữa đảo Tri Tôn là một đảo cát nhỏ, chỉ có thể có lãnh hải 12 hải lý, không có thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý theo công ước quốc tế về luật biển UNCLOS.
Ngày 3 tháng 5: Cục hải sự Trung Quốc loan báo cấm tàu thuyền vào khu vực bán kính 1 hải lý cách giàn khoan, phạm vi này  tăng lên 3 hải lý từ ngày 5 tháng 5 khi Việt Nam chính thức lên tiếng phản đối sự xâm nhập trái phép.
Thoạt tiên, các phản ứng của Việt Nam không được công bố nên sau  người ta mới biết là ngay từ ngày đầu Việt Nam đã phái 29 tàu kiểm ngư và cảnh sát biển đến tìm cách ngăn chặn khi thấy giàn khoan có ý hạ đặt ở một vị trí cố định, hành động mà Bắc Kinh gọi là sự “quấy nhiễu” hoạt động của giàn khoan 981 thuộc Tổng Công Ty Dầu Khí Hải Dương Trung Quốc (CNOOC).
Trong thời gian này, thứ trưởng ngoại giao Trung Quốc Lưu Chấn Dân đã triệu kiến đại sứ Nguyễn Văn Thơ và điện đàm với thứ trưởng ngoại giao Việt Nam Hồ Xuân Nhi phản đối “sự can nhiễu phi pháp của Việt Nam đối với doanh nghiệp Trung Quốc đang tác nghiệp tại vùng biển quần đảo Tây Sa”. Phó chủ nhiệm ủy ban biên giới quốc gia Trần Duy Hải tiết lộ là sau khi biết giàn khoan HD 981 được đưa vào vùng biển chủ quyền Việt Nam, đã có 8 cuộc làm việc với Trung Quốc, 6 cuộc gặp gỡ trực tiếp ở Hà Nội và Bắc Kinh.
7 tháng 5:  Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Biển Việt Nam và Cục Kiểm Ngư họp báo công khai tố cáo các tàu  Trung Quốc đâm húc nhiều lần và dùng vòi phun nước tấn công tàu Việt Nam, gây thiệt hại và làm 6 nhân viên kiểm ngư bị thương nhẹ. Sự khiêu khích này vẫn được tiếp tục trong những ngày sau.
Nữ phát ngôn viên bộ ngoại giao Hoa Kỳ Jen Psaki gọi hành động của Trung Quốc là “đơn phương khiêu khích và gây căng thẳng, đe dọa hòa bình và ổn định trong khu vực”. Bà bày tỏ sự lo ngại về những sự kiện này và Hoa Kỳ kêu gọi các bên kiềm chế, bảo đảm tự do hàng hải trên Biển Đông và giải quyết tranh chấp bằng đường lối hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế.
8 tháng 5: Ngoại Trưởng John Kerry điện đàm với bộ trưởng ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị công khai gọi hành động của Trung Quốc là “khiêu khích” và “hung hăng.” Trung Quốc phản ứng giận dữ, nữ phát ngôn viên bộ ngoại giao Hoa Xuân Oánh cho rằng “hoạt động của giàn khoan không liên quan gì đến Việt Nam chứ chưa phải Hoa Kỳ." Bà dẫn lời ngoại trưởng Vương Nghị yêu cầu “Hoa Kỳ nên khách quan, hành động và phát ngôn thận trọng.”
Cùng ngày, Trung Quốc họp báo nói Việt Nam huy động 36 tàu các loại và chủ động đâm vào tàu Trung Quốc tổng cộng  171 lần trong 5 ngày từ 3 đến 7 tháng 5. Tuy nhiên khác với Việt Nam, phía Trung Quốc không đưa ra được bằng chứng, hình ảnh, video về những việc này.
Trong khi đó Trung Quốc dần dần mỗi ngày tăng cường số tàu bảo vệ giàn khoan, tới 7 tháng 5 đã lên tới 80 chiếc gồm cả tàu hải tuần, hải giám, ngư chính, tàu cá và chiến hạm trang bị súng lớn, hỏa tiễn. Phía Việt Nam không điều động tàu quân sự và thi hành chặt chẽ đường lối kiềm chế, không gây hấn dù bị khiêu khích để có thể tranh thủ sự ủng hộ của các quốc gia trong trận chiến ngoại giao.
9 tháng 5, sáu Thượng Nghị Sĩ Hoa Kỳ tố cáo hành động của Trung Quốc là “gây hấn, tạo rắc rối” và “đe dọa tự do thương mại toàn cầu.”
Liên Âu bày tỏ sự quan ngại về cá động thái của giàn khoan HD 981 "ảnh hưởng đến môi trường an ninh khu vực.”
Ngoại Trưởng Nhật Bản Kishida Fumio phát biểu cho rằng “căng thẳng ở Biển Đông do Trung Quốc đơn phương thăm dò một diện tích biển với các ranh giới không xác định.”
Phát ngôn viên bộ ngoại giao Ấn Độ nói nước họ quan tâm đến hòa bình, thịnh vượng của cộng đồng quốc tế và cho rằng không được cản trở tự do lưu thông hàng hải trên Biển Đông. Phát ngôn viên bộ ngoại giao Trung Quốc bác bỏ phê phán ấy, nói rằng “Biển Đông không liên quan gì với Ấn Độ.”
10 tháng 5: Bộ trưởng ngoại giao Indonesia, Singapore đều phát biểu bày tỏ sự quan ngại và thất vọng với các hành động của chính phủ Trung Quốc. Lần đầu tiên trong lịch sử ASEAN, các bộ trưởng ngoại giao đưa ra một tuyên bố chung nói về vấn đề căng thẳng ở Biển Đông.
Các cuộc biểu tình phản đối Trung Quốc diễn ra tại tất cả mọi nơi có cộng đồng người Việt tại hải ngoại dù với lập trường chính trị nào, người biểu tình mang cờ vàng hay cờ đỏ. Cuộc biểu tình đầu tiên được ghi nhận là ở trước tòa Tổng Lãnh Sự Trung Quốc tại Los Angeles ngày 6 tháng 5.
Ngày 10 tháng 5 và 11 tháng 5, biểu tình quần chúng lần đầu tiên diễn ra ở Sài Gòn và Hà Nội, hoàn toàn không gặp sự hạn chế nào của chính quyền.
11 tháng 5: Tại hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 24 họp ở Naypyidaw, Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng phát biểu công khai tố cáo Trung Quốc đưa giàn khoan cùng hơn 80 tàu xâm phạm vùng biển thuộc chủ quyền Việt Nam và kêu gọi quốc tế ủng hộ đòi hỏi Trung Quốc tôn trọng luật pháp quốc tế
Hội Nghị ASEAN chỉ đưa ra tuyên cáo kêu gọi các bên kiềm chế, không sử dụng vũ lực, nhưng không lên án dích danh bất cứ một quốc gia nào. Mặc dầu tuyên bố chỉ mang tính cách nguyên tắc chung chung nhưng đây là lần đầu từ 20 năm tổ chức này đề cập trực tiếp đến tình hình Biển Đông.
13 tháng 5: 20,000 công nhân biểu tình chống Trung Quốc tỉnh Bình Dương và Đồng Nai, trở thành bạo loạn tại một số các xưởng do đầu tư nước ngoài, gây nhiều thiệt hại vật chất nặng nề. Ngày hôm sau ở khu chế xuất Vũng Áng tỉnh Hà Tĩnh bạo động xảy ra trong một xưởng của Đài Loan làm 2 công dân  Trung Quốc thiệt mạng và hàng trăm người bị thương. Sau những sự kiện vượt khỏi tầm kiểm soát này, biểu tình bị cấm hai ngày cuối tuần tiếp theo ở Hà Nội cũng như Sài Gòn.
Cáo buộc chính quyền Việt Nam khích động và không bảo vệ an ninh cho người nước ngoài, Trung Quốc đưa tàu đến chở khoảng 3,000 công nhân về nước, một số khoảng 600 người Trung Quốc khác rời khỏi Việt Nam bằng đường bộ qua Cambodia.
14 tháng 5: Phát ngôn viên tòa Bạch Ốc Jay Carney nói là tranh chấp Việt – Trung phải được giải quyết “thông qua đối thoại chứ không phải bằng hăm dọa.” Từ 10 tháng 5 đến 15 tháng 5, lần lượt Anh Quốc, Australia, Pháp, Nga đều xác định sự quan tâm sâu sắc đối với tình hình căng thẳng ở Biển Đông và kêu gọi các bên kiềm chế, giải quyết tranh chấp theo con đường hòa bình thông qua đối thoại.
Ngày 18/5, tàu CSB Việt Nam tiếp cận giàn khoan 981 theo hướng nam tây nam phát hiện hơn 60 tàu cá vỏ thép của Trung Quốc có khối lượng từ 200 - 400 tấn, xung quanh giành khoan, khiến cho tàu Việt Nam gặp nhiều khó khăn khi tiếp cận giàn khoan này.
21 tháng 5;  Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng viết trong email trả lời câu hỏi của hãng Anh Reuters  khi đang ở thăm Manila,  rằng chính phủ VN đang xem xét "các phương án tự vệ khác nhau, trong đó bao gồm các hành động pháp lý phù hợp với luật pháp quốc tế."
Bộ trưởng ngọai giao Phạm Bình Minh điện đàm với Ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry và ông Kerry đã mời ông Minh đến Washington để ‘tham vấn toàn diện về các vấn đề song phương và khu vực trong khuôn khổ mối quan hệ Đối tác Toàn diện giữa hai nước. Ông Minh trước đó phàn nàn rằng Việt Nam đã 20 lần có tiếp xúc với Trung Quốc nhưng không đạt kết quả gì.
22 tháng 5: Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng nói Việt Nam và Philippines kiên quyết phản đối Trung Quốc về vụ hạ đặt giàn khoan và kêu gọi cộng đồng quốc tế yêu cầu Trung Quốc chấm dứt hành động xâm phạm ở Biển Đông.
Thông điệp này được ông Dũng đưa ra tại cuộc họp báo chung với Tổng thống Philippines Benigno Aquino III tại Manila Ông  cho biết Việt Nam luôn nhất quán sử dụng các biện pháp hòa bình và tận dụng mọi cơ hội, mọi kênh đối thoại để giải quyết tình hình hiện nay.
Trả lời phỏng vấn một số hãng tin quốc tế, về chuyện “16 chữ vàng và 4 tốt,” ông Dũng đánh giá: "Những gì mà Trung Quốc đang làm khác rất xa những gì mà Trung Quốc nói". Ông nhấn mạnh rằng Việt Nam luôn mong muốn có hòa bình, nhưng “không chấp nhận đánh đổi chủ quyền thiêng liêng để nhận lấy một thứ hòa bình, hữu nghị viển vông, lệ thuộc nào đó."
Theo nhận định của Cục Kiểm Ngư (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) tình hình trên biển đã có phần lắng dịu. Số tàu Trung Quốc đã giảm xuống còn 125 so với 137 hôm trước. Các tàu kiểm ngư của Việt Nam vẫn duy trì ở mức khoảng 20 tàu, tiến sâu và áp sát giàn khoan hơn để phát loa tuyên truyền, yêu cầu giàn khoan và tàu Trung Quốc rời khỏi khu vực thuộc chủ quyền Việt Nam.
Trong khi đó, tàu Trung Quốc tập trung thành các nhóm khoảng 8-10 tàu, gồm tàu cá, tàu hải cảnh, tàu hải giám, tàu kéo, để vây ép, sẵn sàng đâm, va chạm, phun nước vào các tàu Việt Nam ở khoảng cách 4-5 hải lý. Những hành động cố tình gây hấn của tàu Trung Quốc có vẻ muốn cho lực lượng kiểm ngư Việt Nam va chạm, để họ quay phim, chụp ảnh. Tuy nhiên, các tàu Việt Nam không mắc mưu và vẫn kiên định đấu tranh hòa bình.
Quốc hội Việt Nam lần thứ nhì đưa ra thông điệp yêu cầu Trung Quốc rút giàn khoan  khỏi khu vực thềm lục địa của Việt Nam.
23 tháng 5:  Bộ Ngoại Giao họp báo trình bày về những diễn tiến trong ba tuần lễ và phê phán Trung Quốc không có thiện chí giải quyết. Cũng trong dịp này, trả lời một lập luận đã cũ về bức công hàm năm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng, bà Nguyễn Thị Thanh Hà - Hàm vụ trưởng Vụ luật pháp quốc tế Bộ Ngoại giao xác định rằng công hàm này không có giá trị của một văn bản pháp lý về vấn đề chủ quyền với vùng biển đảo của Việt Nam. Hơn nữa bà nói rằng công hàm không có chữ nào nói tới Hoàng Sa hay Trường Sa, vào thời gian ấy hai quần đảo này  thuộc chủ quyền Việt Nam Cộng Hòa, và như thế “chẳng ai  có thể đem cho người khác cái không phải của mình.”
Trên biển Cục Kiểm Ngư cho biết, tàu Trung Quốc bảo vệ giàn khoan giảm xuống so với những ngày trước, còn 122 so với 125 hôm 22. Lực lượng Việt Nam vẫn kiên quyết duy trì bám trụ đấu tranh và tiến sâu hơn vào giàn khoan ở khoảng cách từ 4 đến 5 hải lý.
Sáng sớm ngày 23/5, một phụ nữ 67 tuổi đã 'tự thiêu' chết trước Dinh Thống Nhất (Dinh Độc Lập cũ), Sài Gòn. Báo trong nước nói rằng người phụ nữ có chuyện buồn trong gia đình, nhưng cũng đã để lại 7 biểu ngữ viết tay phản đối Trung Quốc.
Phó Thủ Tướng Vũ Đức Đam đang  tham dự hội nghị quốc tế Tương Lai Châu Á lần thứ 20 tại Tokyo trong buổi gặp Thủ Tướng Nhật Bản Shinzo Abe đã cùng phản đối những hành động của Trung Quốc gây căng thẳng trên Biển Đông.
Trung Quốc phản ứng ngay việc này, cảnh cáo Nhật đừng nên can thiệp vào Biển Đông. Phát ngôn viên bộ ngoại giao Hồng Lỗi nói: “Chúng tôi yêu cầu phía Nhật nên có những hành động thiết thực để bảo vệ hòa bình và ổn định trong khu vực.”
Ngoại trưởng Fumio Kishida sẽ đến thăm Việt Nam vào cuối tháng 6, bàn thảo về tăng cường hợp tác an ninh hàng hải. (HC)





Vụ tự thiêu chống Trung Quốc đầu tiên tại Việt Nam : 

Ngọn đuốc trước cơn nguy biến của dân tộc


Lá thư tuyệt mệnh của bà Lê Thị Tuyết Mai, với nội dung chống Trung Quốc xâm lược.
Lá thư tuyệt mệnh của bà Lê Thị Tuyết Mai, với nội dung chống Trung Quốc xâm lược.

Sáng sớm hôm nay 23/05/2014 một phụ nữ đã tự thiêu trước Dinh Thống nhất (tức Dinh Độc lập trước đây) ở Saigon. Theo thông cáo của Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế, người tự thiêu là bà Lê Thị Tuyết Mai, 67 tuổi, pháp danh Đồng Xuân, huynh trưởng miền Quảng Đức thuộc giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, tự thiêu để phản đối Trung Quốc xâm lược Biển Đông.

Báo Thanh Niên cho biết người tự thiêu để lại các biểu ngữ với nội dung yêu cầu Trung Quốc rút khỏi biển đảo Việt Nam, đề nghị đoàn kết chống xâm lăng. Các bảo vệ của Dinh Thống nhất đã nhanh chóng dùng bình chữa cháy để dập lửa. Khoảng ba phút sau ngọn lửa được dập tắt, nhưng người phụ nữ đã tử vong.

Các biểu ngữ mang dòng chữ : « Yêu cầu đoàn kết đập tan mưu đồ xâm lược của Trung Quốc », « Ủng hộ cảnh sát biển và ngư dân Việt Nam », « Yêu cầu Trung Quốc rút khỏi biển Việt Nam », « Đốt ánh sáng soi đường cho những người yêu nước », « Xưa kia cho Bà Trưng và Bà Triệu đứng lên đánh giặc ».

Đây là vụ tự thiêu chống Trung Quốc lần đầu tiên tại Việt Nam, từ trước đến nay thế giới chỉ biết đến các vụ tự thiêu ở Tây Tạng chống lại sự đô hộ của Bắc Kinh.

Bản tin của hãng thông tấn Pháp AFP hôm nay mang tựa đề « Một phụ nữ Việt Nam tự thiêu để phản đối Trung Quốc », nêu chi tiết công an tìm thấy tại hiện trường một can xăng và một lá thư, trong đó bà Lê Thị Tuyết Mai bày tỏ sự phẫn nộ trước giàn khoan Trung Quốc xâm phạm vùng biển Việt Nam, đòi hỏi Bắc Kinh phải rút giàn khoan này đi. Một video ghi lại vụ tự thiêu này đã được đưa lên YouTube.
RFI Việt ngữ phỏng vấn hòa thượng Thích Không Tánh, nguyên Tổng vụ trưởng Tổng vụ Từ thiện Xã hội, nguyên Chánh đại diện miền Quảng Đức, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất tại Thành phố Hồ Chí Minh về sự kiện này.

Phỏng vấn hòa thượng Thích Không Tánh - TP Hồ Chí Minh
23/05/2014
by Thụy My


RFI : Kính chào hòa thượng Thích Không Tánh, nguyên Chánh đại diện miền Quảng Đức, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất tại Saigon. Thưa thầy, hôm này vừa có sự kiện một phật tử tự thiêu chống Trung Quốc xâm lược ?


Hòa thượng Thích Không Tánh : Dạ thưa, đúng vậy đó cô. Chúng tôi ngay từ sáng sớm hôm nay đã được tin. Quý anh em huynh trưởng Phật tử có báo cho chúng tôi, vì chúng tôi thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, và trước đây là Chánh đại diện của miền Quảng Đức. Mà cô Lê Thị Tuyết Mai, pháp danh Đồng Xuân là một huynh trưởng cấp Tấn, và là Phó trưởng ban hướng dẫn của Gia đình Phật tử miền Quảng Đức.
Hồi sáng tới giờ cũng đang cố gắng kiếm cách để tổ chức cúng lễ và cầu nguyện. Nhưng công an họ bao vây rất kỹ lưỡng, nên không thể nào đến gần được. Họ cũng làm khó dễ cả nơi gia đình, và thân nhân cũng rất sợ. Cho nên bên này chúng tôi cũng không biết làm sao. Thành thử quý huynh trưởng Phật tử cũng chỉ hết lòng kính cầu nguyện thôi.
Mong rằng chí nguyện mà do đó cổ đã tự thiêu được thành tựu, chứ hiện tại chúng tôi cũng có rất nhiều nỗi đau khổ, và cũng chỉ biết cầu nguyện vậy thôi, vì bị cô lập và phong tỏa rất chặt chẽ.


RFI Thưa thầy, vì sao phật tử Lê Thị Tuyết Mai lại lấy thân mình làm đuốc ?
Cô vốn là một huynh trưởng Gia đình Phật tử Việt Nam thuộc hệ thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, huynh trưởng cấp Tấn. Cô vẫn thường sinh hoạt với chúng tôi. Tinh thần của cô với đạo pháp và đất nước rất cao, bởi vì đa phần quý huynh trưởng Gia đình Phật tử Việt Nam mà vào cấp Tấn đổ lên, tâm nguyện và hạnh nguyện, tinh thần đối với đạo pháp và dân tộc rất cao.
Cho nên cô rất buồn trước việc Trung Cộng xâm lấn thềm lục địa, đặt giàn khoan HD-981 vào trong vùng biển của Việt Nam. Rõ ràng là Trung Cộng đã xâm lấn hẳn, hoàn toàn vào trong thềm lục địa của mình, vùng biển của mình !
Bà con ngư dân ở Quảng Ngãi ngày xưa ra vùng đó để đánh bắt cá, thì bây giờ không ra tới đó được nữa, chỉ còn ở gần trong này thôi, giàn khoan đó vào rất gần. Và trước chủ trương lấn chiếm biển của họ - trước đây họ đã lấy thác Bản Giốc, Ải Nam Quan rồi cả những khu vực khác nữa – giờ đây họ muốn chiếm trọn vùng biển đó. Cho nên người dân nào suốt thời gian qua cũng rất đau khổ trước việc xâm lược của Trung Cộng.
Là một huynh trưởng của Gia đình Phật tử, nên cô cũng ý thức được tình cảnh quê hương đất nước bị xâm lấn như vậy. Cô nguyện tự thiêu để làm sao bảo toàn được sự toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải ; cúng dường chư Phật để nói lên tiếng nói của người huynh trưởng một lòng gắn bó với đạo pháp và dân tộc. Trước nguy biến của đất nước, trước sự xâm lược của Trung Cộng, cô đã nguyện làm một ngọn đuốc, hy vọng có thể cảnh tỉnh chế độ trước nạn ngoại xâm cũng như nội xâm, để góp phần bảo vệ quê hương Tổ quốc, dân tộc Việt Nam thân yêu của chúng ta.


RFI : Về ý định tự thiêu của bà Tuyết Mai, các đồng đạo hay giáo hội có biết hay không ?
Cô ấy giữ kín, bởi vì để lộ ra thì không cách nào thực hiện được. Thành thử bất ngờ vào lúc mờ mờ sáng, khoảng năm giờ hơn thì cô một mình tự đến trước Dinh Độc lập tức Dinh Tổng thống ngày xưa của Việt Nam Cộng Hòa. Cô tự thiêu, và để lại những văn thơ, giấy tờ ở trong giỏ xách, nhưng có lẽ bây giờ Nhà nước người ta đã lấy hết rồi. Cho nên có nhiều chuyện mình nắm không rõ hết được.
Chỉ biết rằng nội dung là cô một lòng đối với giáo hội, đối với dân tộc, nên trước tình cảnh Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất bị chế độ đặt ra ngoài vòng pháp luật không cho sinh hoạt. Từ lâu cô vẫn sinh hoạt theo hệ thống của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, nhưng Nhà nước nhiều lần cấm đoán, nên cô cho chúng tôi biết rằng cô rất buồn.
Hồi trước người chồng của cô cũng là huynh trưởng cấp Tấn, trưởng ban hướng dẫn của Gia đình Phật tử miền Quảng Đức. Huynh trưởng này hết lòng đối với đạo pháp, và giờ đã khuất bóng lâu rồi. Cô (Tuyết Mai) nguyện trung thành theo đường lối của đạo pháp, dân tộc ; không biết nghĩ sao mà hôm nay cô lại thiêu thân để cúng dường, thì chúng ta cũng hết lòng cầu nguyện cho cô.
Người Phật tử bắt đầu là một đoàn sinh lúc còn trẻ, và khi đã qua hết hệ thống, học những khóa đào tạo rồi sinh hoạt…muốn lên cấp Tấn thì phải trên mười năm. Phải đi qua cấp Tín rồi cấp Tập, để lên đến cấp Tấn phải tu học cũng như có công hạnh, trình độ, đã điều khiển đoàn sinh và đứng ra lãnh đạo một đoàn thể trẻ của Phật tử.


RFI : Thưa thầy, trước hành động xâm lăng của Trung Quốc tại Biển Đông, quan điểm của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất như thế nào ? Được biết Đức Tăng thống Thích Quảng Độ có ra thông cáo về vấn đề này ?
Xin thưa, Đức đệ ngũ Tăng thống trước tình cảnh Trung Cộng xâm lấn, đặt giàn khoan ở thềm lục địa thuộc vùng biển của Việt Nam, ngài có ra một kháng thư để nói lên cho thế giới biết. Đường lối của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất xuyên suốt từ xưa tới giờ là phải gắn liền với đạo pháp và dân tộc, cho nên ngài đã ra thông báo đó. Đồng thời cũng lên án Trung Cộng đã xâm lược.
Thật ra trước đây, cả mười mấy năm trước, trước nạn Hán hóa xâm lược của Trung Cộng, giáo hội đã từng lên tiếng nhiều lần và có nhiều văn kiện chứ không phải mới đây. Gần đây khi họ đặt giàn khoan HD-981, ngài cũng ra thông cáo đó để cảnh tỉnh, đồng thời nói lên lập trường là Việt Nam phải có dân chủ, nhân quyền và tự do tôn giáo, tín ngưỡng, người dân phải có được các quyền, thì may ra mới có thể bảo toàn được lãnh thổ, lãnh hải trước việc chúng ta vừa bị nạn nội xâm lẫn ngoại xâm.


RFI Theo thông cáo, trong mấy tuần nay có những huynh trưởng gởi thư phát nguyện tự thiêu phản đối Trung Quốc xâm lược, như đã diễn ra ở Tây Tạng. Quan niệm của giáo hội về vấn đề này ra sao ?
Thưa, đứng về phía giáo hội và theo chúng tôi được biết là vào năm 1963, khi ấy có cả mười mấy vị làm đơn để xin tự thiêu trước việc Phật giáo bị kỳ thị và đàn áp, nhưng các ngài đứng đầu giáo hội không đồng ý. Dầu rằng các vị đó có hạnh nguyện cao cả như vậy, nhưng giáo hội không bao giờ đồng ý đâu.
Cho nên lúc bấy giờ như ngài Quảng Đức, các thánh tử đạo tự phát nguyện và làm như vậy thôi, để cúng dường và nói lên tấm lòng của mình, chứ không phải giáo hội đồng ý chuyện đó. Lúc nào giáo hội cũng trên tinh thần từ bi, bảo toàn sinh mạng của mỗi người.
Theo truyền thống, đạo lý của Việt Nam mình và đối với đạo Phật, người ta nếu có ý nguyện đó, tất nhiên theo trong kinh thì các vị bồ tát đôi khi có thể phát nguyện tự thiêu để cúng dường, để nói lên hạnh nguyện của mình. Nhưng các vị lãnh đạo Phật giáo không thể nào đồng ý như vậy đâu, lúc nào cũng khuyên bảo toàn. Nếu họ có lòng phát nguyện, đại nguyện như thế thì chúng ta chỉ hết lòng cầu nguyện và khâm phục thôi, chứ còn mạng sống con người là trên hết, sự sống là trên hết.
Bởi vì Đức Phật thể hiện ở thế gian này là ngài đem sự sống, đem hòa bình và tình thương đến cho nhân loại và muôn loài, bảo toàn sự sống và hạnh phúc của nhân loại.


RFI RFI Việt ngữ xin rất cảm ơn hòa thượng Thích Không Tánh, nguyên Chánh đại diện miền Quảng Đức thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất tại Thành phố Hồ Chí Minh, đã vui lòng trả lời phỏng vấn hôm nay của chúng tôi.



TA PHẢI ĐÁNH VÌ GIẶC ĐÃ VÀO NHÀ

T.K.TRAN

Khi chiếc lá nho cuối cùng đã rơi xuống…
Kể từ khi các nhà cầm quyền Trung Quốc đặt bút phác họa kế hoạch mở rộng bờ cõi đất nước của họ xuống phía nam, những ý đồ nham hiểm của họ đã dần lộ ra rõ ràng qua từng bước đi có tính toán kỹ lưỡng. Từ khi một viên chức Đài Loan đặt bút vẽ ranh giới hình lưỡi bò ở biển Đông năm 1947, qua việc chiếm đóng một phần quần đảo Hoàng Sa năm 1956, cưỡng chiếm toàn bộ Hoàng Sa năm 1974, rồi tấn công và chiếm đóng một phần Trường Sa năm 1988, thì tháng 5.2014 đã đánh dấu một mốc quan trọng trong kế hoạch của họ qua việc đưa giàn khoan dầu HD-981 ra thăm dò dầu khí ngay trong vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Cái dã tâm không thể chối cãi của họ đã hiện hình rõ ràng.
Đứng trước sự kiện đó, dường như là nhà nước Việt Nam vô cùng bối rối trong cách phản ứng. Sự im lặng của Hội Nghị Trung Ương 9 cũng như chính sách bất nhất đối với các cuộc biểu tình cho ta thấy điều này.
Từ “toute nation a le gouvernement qu´ elle merite” tới “der Fisch stinkt vom Kopf her “?
Joseph de Maistre là một chính trị gia Pháp bảo thủ cùng cực trong thời cánh mạng Pháp vào thế kỷ 18 đã có những câu nói để đời đại loại như: “Các đức Giáo Hoàng không bao giờ nhầm lẫn”,  hay “Trong một thể chế dân chủ không phải là nhân dân làm chủ mà là đồng tiền sẽ làm chủ”(1). Trong một bức thư đề gửi Nga Hoàng Alexander I ngày 15.08.1811, de Maistre viết: “toute nation a le gouvernement qu´elle merite.” (dân tộc như thế nào sẽ lãnh đủ  nhà cầm quyền như thế), ông cũng tỏ ý can ngăn  Nga Hoàng việc nhà vua dự tính ban hành một số luật lệ (cải tổ?) cho dân Nga. Ông cho rằng những điều đó là vô bổ, vì dân Nga không đáng và cũng không có đủ tri thức để hưởng những luật lệ đó(2).
Câu nói đó đã được truyền tụng tới ngày nay và trong một chừng mực nào đó cũng được các nhà cầm quyền Việt Nam đắc ý áp dụng cho nhân dân khi các lý luận gia nhà nước tuyên bố là trình độ dân trí của dân ta còn quá thấp nên không đáng thực hành dân chủ. Nói cách khác, nhân dân ta vốn “thuần” (danh từ dành cho gia súc đã được uốn nắn ngoan ngoãn, như kiểu nói của quan chức trong vụ “cưỡng chế” đất ở Tiên Lãng gần đây), thì sự dẫn dắt bởi các lãnh đạo như kiểu hiện nay cũng là đích đáng, theo cách nghĩ của họ.
Khi lý luận như vậy là nhà cầm quyền đã vênh váo không biết tới nhiệm vụ của lãnh đạo là phải nâng cao dân trí, thực thi dân chủ từng bước chứ không phải là ôm Quyền và giữ Lợi cho riêng bản thân. Vô hình chung nhà cầm quyền đã cho thấy cái vô tài bất lực của họ trong nhiệm vụ dẫn dắt đất nước đi lên, và rồi ra, họ sẽ chịu trách nhiệm hoàn toàn trước lịch sử về tồn vong của dân tộc. Châm ngôn Đức có câu “Der Fisch stinkt vom Kopf her” ngụ ý nói tới cái hay hay cái dở cũng là bắt nguồn từ cấp lãnh đạo, chỉ huy. Khi cái chóp bu của đất nước đã thối tha như cái đầu của một con cá ươn thì chúng ta phải làm gì?
Giặc đã vào nhà, ta phải đánh.
Nay sơn hà nguy biến nhưng không thể nào chờ đợi gì ở cái chóp bu nhà nước này. Đây là lúc mỗi người dân ở khắp mọi nơi, trong nước hay ngoài nước, đều phải tham dự vào việc giữ nước. Giặc đã vào nhà, ta phải đánh. Song, đánh giặc không phải là lúc nào cũng bằng súng đạn. Nhất là không thể đánh bằng quân sự với một kẻ khổng lồ trang bị vũ khí tới tận chân răng.
Nhưng: biết người biết ta…
Biết người: Gót chân Achilles của gã khổng lồ Trung Quốc.
Thế kỷ 19 của Âu Châu, thế kỷ 20 của Hoa Kỳ, thế kỷ 21 là đến lượt Trung Quốc làm bá chủ thế giới. Đó là giấc mơ Đại Hán mà Tập Cận Bình đã nhắc tới. Mọi động thái của họ đều phục vụ cho ý đồ này. Sau khi xây dựng một nền kinh tế tiến triển ngoạn mục để phục vụ cho một guồng máy quân sự vững mạnh, Trung Quốc bắt đầu chủ nghĩa bành trướng bằng yêu sách biển Đông. Những mưu tính chi phối đất nước Việt Nam trên mọi mặt: kinh tế, chính trị và cả văn hóa thì họa chăng là chỉ có lú hoặc  mới không thấy.  Song sức mạnh của Trung Quốc dựa trên một chính thể độc tài toàn trị, không dựa trên lòng dân. Những bất ổn chính trị từ việc đàn áp dân tộc thiểu số, khoảng cách giầu nghèo xã hội to lớn, mâu thuẫn giữa nông dân bị cướp đất với tầng lớp tư bản đỏ sẽ luôn luôn gây xáo trộn cho xã hội Trung Quốc. Những quan hệ quốc tế với những ràng buộc trong thời kỳ toàn cầu hóa sẽ trói chân, không cho phép Trung Quốc đi những bước đi ngạo mạn như những đế quốc của thế kỷ 19. Một cấm vận của Tây phương sẽ làm tê liệt các phương tiện giao thông, các máy bay xuất xứ từ Mỹ (Boeing) hay Tây Âu (Airbus) phải nằm liệt dưới đất, xe hơi không thể sản xuất được, nhiều ngành kinh tế sẽ phải ngưng hoạt động vì thiếu phụ tùng sửa chữa và nhiên liệu. Vết thương ở gót chân Achilles sẽ tạo phản ứng dây chuyền dẫn tới bạo loạn trong nước, làm lung lay nhà cầm quyền.
Giàn khoan dầu HD-981 được chính người Mỹ thiết kế cơ bản, Trung Quốc chu toàn bằng những chi tiết máy móc, mà một phần lại được mua ở Tây phương. Nếu Quốc tế được cảnh báo về ý đồ của Trung Quốc với tham vọng bành trướng và cướp bóc tài nguyên của láng giềng rồi cấm vận máy móc thuộc về loại này với Trung Quốc, thì ta đã thắng một trận đánh lớn.
Biết ta: Truyền thống yêu nước và chủ động mặt trận ngoại giao
Chúng ta sẵn sàng chống trả ngoại xâm, truyền thống yêu nước của chúng ta đã được thế giới biết đến. Nhưng đánh như thế nào là tùy vị trí và khả năng của mỗi người. Chính những người dân sống ở trong nước mới thực sự nắm giữ sinh mệnh đất nước. Kiều bào ở nước ngoài cũng đóng góp được phần của mình. Trong quá khứ những mũi dùi chính yếu của chúng ta là nhắm vào vấn đề chà đạp nhân quyền của nhà nước Việt Nam. Nhiều đoàn thể khắp nơi ở Việt Nam cũng như ở nước ngoài đã tích cực hoạt động, hiệu quả đã cộng hưởng, có tác động vào truyền thông, chính giới ở Mỹ và Âu Châu, từ đó gây áp lực trực tiếp có kết quả lên nhà cầm quyền Việt Nam.
Tình thế hiện nay với nguy cơ mất nước khiến việc vận động ngoại giao, đánh thức dư luận nước ngoài về chính sách bành trướng của Trung Quốc, về sự hung hãn của Trung Quốc đối với các nước láng giềng trở nên nóng bỏng, quan trọng ngang với việc tranh đấu bảo vệ nhân quyền mà quốc tế hằng quan tâm. Đây chính là một nhiệm vụ ưu tiên, trọng tâm của người Việt Nam ở nước ngoài.
Phải cảnh báo cho dư luận thế giới thấy mưu đồ lâu dài thống trị thế giới của Trung Quốc.
Phải cảnh báo rằng sự trỗi dậy của Trung Quốc đồng nghĩa với sự tàn lụi của Tây phương.
Phải báo động là việc cướp biển Đông của Việt Nam là bước đầu của kế hoạch táo tợn này. Ngăn chặn bước tiến của Trung Quốc ngày nay ở vùng này cũng chính là bảo vệ Tây phương trong tương lai.
Mục tiêu thì rõ ràng song khó khăn. Nhiệm vụ thì thật nặng nề. Song không có con đường nào khác và điều đó đòi hỏi sự góp sức của tất cả mọi người.
Suốt trong bề dầy lịch sử, màu cờ, chế độ chỉ có tính cách giai đoạn, có thể kéo dài mấy chục năm. Quốc gia có thể trường tồn, song cũng có thể bị mất nước, nếu không biết vận dụng sức để giữ nước. Trong lịch sử  thế giới, đã có biết bao nhiêu dân tộc mất nước phải lang thang sống nhờ trên đất nước khác. Dân tộc Việt Nam cũng có thể bị số phận này, nếu không biết đoàn kết triệu người như một.
Không thể bỏ qua bất cứ một người nào, không thể bỏ phí bất cứ một khả năng nào. Ở hải ngoại, các tổ chức phải chấm dứt những hành động hay ngôn ngữ chống đối nhau từ mọi bên. Những mâu thuẫn cần phải được gạt bỏ để đặt lợi ích dân tộc lên trên hết.
Hội nghị Diên Hồng ngày xưa thành công vì không có cờ vàng cờ đỏ, chỉ có dòng chữ sát thát xăm trên cánh tay toàn dân.
T.K.T.



Không liên minh với Hoa Kỳ để chống Trung Quốc, phải liên minh với Hoa Kỳ để giữ Biển Đông

Nguyễn Thanh Giang, từ Việt Nam
2014-05-15
 In trang này
Tàu Hải cảnh Trung Quốc chủ động đâm thẳng vào mạn trái tàu Cảnh sát biển Việt Nam
- Trung Quốc đã xâm lăng Việt Nam bằng việc đem một giàn khoan khổng lồ cắm sâu trong thềm lục địa thuộc vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam, tại địa điểm chỉ cách đảo Tri Tôn 34 km về phía nam, cách đảo Lý Sơn 221 km về phía đông, cách bờ biển Việt Nam 120 hải lý.
Giàn khoan Hải Dương 981 (HD-981) là giàn khoan nửa nổi nửa chìm, dài 114 m, rộng 90 m, cao 137 m . Diện tích mặt sàn của nó rộng bằng một sân bóng đá tiêu chuẩn.
Gần hai năm trước (9-5-2012), khi đặt HD-981 ở mỏ dầu Lệ Loan 6-1-1 tại khu vực cách Hong Kong 320km về phía đông nam, chủ tịch Tổng công ty Dầu khí Hải Dương Trung Quốc (CNOOC) Vương Nghi Lâm đã hùng hồn tuyên bố “đây là biên giới di động, là lãnh thổ di động và là một trong những vũ khí chiến lược của Trung Quốc trong cuộc chiến năng lượng dầu khí”.
- Trung Quốc đã tấn công Việt Nam bằng cả một đạo quân mạnh gồm 80 tàu biển các loại, trong đó có 07 tàu quân sự gồm: tàu hộ vệ tên lửa, tàu tuần tiễu tấn công nhanh, tàu hải cảnh, hải giám, ngư chính …Trên không phận khu vực này, hàng ngày còn có hàng chục tốp máy bay khuấy đảo.
Họ bắn đại bác nước vào ta, phun vòi rồng vào tầu ta, húc rách hai tầu hải giám của ta, sát thương nhiều chiến sỹ của ta…
Cho nên trong cuộc biểu tình ngày 9-5-2014 trước Đại sứ quán Trung Quốc, tiến sỹ Nguyễn Xuân Diện đã cấp báo: "Chúng tôi rất là căm phẫn. Yêu cầu Trung Quốc rút khỏi Biển Đông. Hành động của TQ trong những ngày vừa rồi thực sự là xâm lăng Việt Nam. Tổ Quốc thật sự lâm nguy. Chúng tôi đề nghị tất cả mọi người đứng lên để cứu nước."
Sự việc nghiêm trọng như vậy nhưng báo chí ta chỉ lên tiếng rất dè dặt. Đã vậy, mình không dám nói nhưng cũng không chịu để thiên hạ góp lời. Tiến sỹ Tô Văn Trường cho biết: Đài Truyền hình Nhật Bản NHK muốn xin sử dụng hình ảnh về tàu của Trung Quốc phun vòi rồng, húc hư hại các tàu cảnh sát biển của ta, Bộ Ngoại giao đồng ý nhưng Ban Tuyên Giáo Trung ương Đảng ngăn cản !.
Chúng tôi rất là căm phẫn. Yêu cầu Trung Quốc rút khỏi Biển Đông. Hành động của TQ trong những ngày vừa rồi thực sự là xâm lăng Việt Nam. Tổ Quốc thật sự lâm nguy. Chúng tôi đề nghị tất cả mọi người đứng lên để cứu nước
tiến sỹ Nguyễn Xuân Diện
Càng đáng phàn nàn hơn khi cái người đang lãnh trách nhiệm tổng chỉ huy toàn dân tộc, tổng chỉ huy các lực lượng vũ trang Việt Nam lại như không còn khả năng nghe, không còn khả năng nhìn, không còn khả năng nói, không còn khả năng biểu cảm. Ông Nguyễn Khắc Mai, nguyên Vụ trưởng Vụ Nghiên cứu, Ban Dân vận Trung ương, hiện là giám đốc Trung tâm nghiên cứu Văn hoá Minh Triết phẫn nộ:
Anh Nguyễn Phú Trọng là Tổng Bí thư, ngày mùng 3 tháng 5 đi tiếp xúc cử tri để chuẩn bị ra họp Quốc hội không hề có một nửa tiếng, nửa lời. Tôi hỏi anh trong tư cách một Tổng Bi thư của đảng cầm quyền mà như vậy thì là thế nào? Và tư cách của anh là một lãnh đạo cao nhất của đất nước hiện nay thì như thế nào? Tôi rất bất bình và thấy xấu hổ, nhục nhã khi một người lãnh đạo trước một sự kiện lớn của dân tộc lại không hề có một nửa ý kiến. Như thế tấm lòng của anh với dân, với đất nước là thế nào, anh sợ cái gì và tại sao anh không dám lên tiếng để phát động sức mạnh của nhân dân bảo vệ đất nước?

Tàu hải giám TQ đâm thẳng vào tàu Cảnh sát biển Việt Nam
Tàu hải giám TQ đâm thẳng vào tàu Cảnh sát biển Việt Nam (Nguyentandung.org)


Tôi xin nói rõ là 4 triệu đảng viên không đủ sức để bảo vệ dân tộc đâu mà phải toàn dân. Anh không dựa vào dân, anh không phát động dân anh không nói rõ chính kiến của mình đối với dân thì dân sẽ nghi ngờ anh có làm tay sai cho họ không? Anh có ngậm miệng trong việc họ cho anh cái gì không mà anh lại im lặng?”.
Từ bên kia Thái Bình Dương, ứng cử viên Tổng thống Hoa Kỳ năm 2008, người tù binh chiến tranh Việt Nam năm xưa, ông John Mc Cain đã tức tốc lên tiếng: "Các tàu Trung Quốc bao vây và đâm vào tàu của Cảnh sát Biển Việt Nam là biểu hiện của quấy rối hung hăng. Không có gì nghi ngờ rằng Trung Quốc phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về hành động đơn phương nhằm thay đổi hiện trạng này". "Tất cả các quốc gia có trách nhiệm đều có bổn phận yêu cầu các lãnh đạo Trung Quốc ngay lập tức có các bước đi nhằm làm giảm căng thẳng và trả lại nguyên trạng".
Đài Truyền hình Nhật Bản NHK muốn xin sử dụng hình ảnh về tàu của Trung Quốc phun vòi rồng, húc hư hại các tàu cảnh sát biển của ta, Bộ Ngoại giao đồng ý nhưng Ban Tuyên Giáo Trung ương Đảng ngăn cản
Tiến sỹ Tô Văn Trường

Và bà Jen Psaki, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ: "Chúng tôi rất quan ngại về những hành động nguy hiểm và đe dọa của các tàu trong khu vực tranh chấp", "Hành động đơn phương" của Trung Quốc "dường như là một phần trong cách hành xử tổng thể của nước này nhằm yêu sách chủ quyền theo cách có thể gây hại cho hòa bình và ổn định của khu vực".


Nhưng … ! Ông Trọng không những không bầy tỏ được mối quan tâm cần thiết đối với tình trạng “sơn hà nguy biến”, mà thấy như, ông còn muốn xuê xoa, lấp liếm cho tội ác của “nguời bạn 4 tốt, 16 chữ vàng”.
Ngày 2 tháng 5 giàn HD 981 xâm lăng vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam thì ngày 5 tháng 5 Nguyễn Phú Trọng triệu tập hội nghị toàn quốc để nghe ông đọc một diễn văn lê thê, vô bổ về chống tham nhũng với toàn những câu, những ý nói ở đâu cũng được, nói lúc nào cũng được, không thấy thực tế cụ thể, không có gì mới.
Ngày 7 tháng 5 Trung Quốc tấn công phá hủy khí tài, khí cụ, sát thương binh sỹ của ta thì ngày mồng 8 Nguyễn Phú Trọng triệu tập Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng để bàn về … văn hóa. Dưới quyền điều hành của ông TBT này, Hội nghị lờ tịt, coi như không nghe, không biết, không mảy may quan tâm đến một sự kiện vô cùng nguy cấp đang diễn ra trên đất nước.

Dàn khoan Trung Quốc HD 981 định
 vị khoan tại vị trí có tọa độ 15029’ vĩ độ bắc,   111012’ độ kinh  đông, cách bờ biển Việt Nam khoảng 120 hải lý

Dàn khoan Trung Quốc HD 981 định vị khoan tại vị trí có tọa độ 15029’ vĩ độ bắc, 111012’ độ kinh đông, cách bờ biển Việt Nam khoảng 120 hải lý. Files photos
(Trời ơi! với một vị “lãnh tụ” như vậy thì không mất biển, mất đảo, không bị đô hộ bởi Đại Hán cuồng vọng mới là lạ. Cho nên, chúng tôi khẩn thiết mong Hội nghị Trung ương 9 hãy chuyển ngay nội dung để bàn một vấn đề rất sống còn trước mắt: Thay Tổng Bí thư. Bị ngoại bang đô hộ thì còn chống tham nhũng làm gì? Bị ngoại bang đô hộ thì còn xây dựng nền văn hóa nào nữa!).


Tình hình rồi sẽ ra sao?
Trung Quốc chắc chắn đã và sẽ bỏ ngoài tai những điệp khúc phản kháng đã trở nên vô hồn như: "Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý khẳng định chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, cũng như quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của mình được xác định phù hợp với Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982".
Ông Dương Danh Huy, một nhà nghiên cứu kỳ cựu về Trung Quốc đã rất có lý khi nói: “Trước chủ trương của Trung Quốc, một chủ trương bất di bất dịch bất kể lời lẽ ngoại giao phù phiếm, trước hết Việt Nam cần nhìn nhận rằng việc phản đối phi đối sách chỉ có thể dẫn tới bị chinh phục trên thực tế. Chỉ phản đối phi đối sách là tương đương với thầm chấp nhận bị chinh phục trên thực tế”.

“Cứ để Đảng và Nhà nước lo”, nhưng “dưới sự lãnh đạo tài ba, sáng suốt” của mấy ông lãnh đạo này thì liệu cái “chiến hạm khổng lồ ” HD 981 có sẽ phải rời khỏi vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam không???
Tôi rất bất bình và thấy xấu hổ, nhục nhã khi một người lãnh đạo trước một sự kiện lớn của dân tộc lại không hề có một nửa ý kiến. Như thế tấm lòng của anh với dân, với đất nước là thế nào, anh sợ cái gì và tại sao anh không dám lên tiếng để phát động sức mạnh của nhân dân bảo vệ đất nước?
Nếu mũi khoan cứ cắm đấy mà chỉ đưa được Trung Quốc vào bàn đàm phán để “gác tranh chấp, cùng khai thác” tức là ta thất bại hoàn toàn. Tức là, Trung Quốc đã đạt được âm mưu biến vùng biển đặc quyền kinh tế của ta thành vùng tranh chấp. Trận thua này sẽ làm tiền đề cho những trận thua tiếp sau. Cái lưỡi bò của họ sẽ liếm hết Biển Đông của ta. Tin cho hay hải quân Trung Quốc lại đang chuẩn bị xây một sân bay trên đảo Gạc Ma thuộc quần đảo Trường Sa của ta.
Muốn đuổi được HD 981 đi, chỉ còn cách giao nó cho binh chủng tên lửa đặt trên bờ biển hoặc trong tầu ngầm xử lý.

Ông Nguyễn Phú Trọng  trong cuộc họp Đại hội toàn quốc   lần thứ 11 của Đảng Cộng sản Việt Nam tại Hà Nội. AFP

Ông Nguyễn Phú Trọng trong cuộc họp Đại hội toàn quốc lần thứ 11 của Đảng Cộng sản Việt Nam tại Hà Nội. AFP
Nhưng, nếu vậy thì tình hình sẽ trở nên rất phức tạp, rất nặng nề.
Nhẽ ra, những người lãnh đạo ĐCSVN không được để cho tình trạng như hiện nay diễn ra.
Chắc hẳn Trung Quốc không dám ngang nhiên kéo giàn khoan HD 981 vào hải phận của ta nếu trong chuyến công du Châu Á vừa qua, Tổng thống Obama đến thêm nước thứ 5 mà tại Việt Nam ông cũng có lời tuyên bố tương tự như đã tuyên bố đối với Nhật Bản: Hoa Kỳsẵn sàng bảo vệ đồng minh Nhật Bản về an toàn lãnh thổ trong đó có cả quần đảo Senkaku (Trung Quốc gọi là đảo Điếu Ngư).

Các nhà lãnh đạo Philippine do biết thực sự cầu thị cũng đã sẵn sàng chấp nhận sự bảo trợ như thế qua thỏa thuận lịch sử về việc để cho Hoa Kỳ sử dụng lại các căn cứ quân sự trên lãnh thổ mình sau hơn 22 năm rút quân. (Sao Việt Nam không noi tấm gương sáng suốt đó để mời Hoa Kỳ trở lại Cam Ranh?)

Liên minh Nhật Bản – Hoa Kỳ chặn đường đến Senkaku, liên minh Phillipine – Hoa Kỳ chặn đường đến Scarborough nên Trung Quốc đành chọc khe Việt Nam.
Trung Quốc chỉ có thể thẳng tay ức hiếp, băt nạt Việt Nam khi thấy Việt Nam bị cô lập.

Tình trạng cô lập do chính tự ta gây ra. Cái trò láu cá vặt chỉ thả vài người: Cù Huy Hà Vũ, Vi Đức Hồi, Nguyễn Tién Trung … hòng đổi lấy TPP trong khi không những không chịu thả Trần Huỳnh Duy Thức, Điếu Cày, Đỗ thị Minh Hạnh, Nguyễn Văn Lý, Lê Quốc Quân … mà còn bắt thêm Trương Minh Đức, Nguyễn Hữu Vinh … làm cho thế giới tiên tiến vẫn thấy chính quyền Việt Nam là “cái mặt không chơi được”. Chẳng những thế, Hiến pháp sửa đổi vẫn không chịu thừa nhận tự do lập hội, không chịu thừa nhận tự do ngôn luận, không chịu thừa nhận quyền bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, không chịu thừa nhận đa sở hữu đất đai …
Ngày 7 tháng 5 TQ tấn công phá hủy khí tài, khí cụ, sát thương binh sỹ của ta thì ngày mồng 8 Nguyễn Phú Trọng triệu tập Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng để bàn về … văn hóa. Dưới quyền điều hành của ông TBT này, Hội nghị lờ tịt, coi như không nghe, không biết, không mảy may quan tâm đến một sự kiện vô cùng nguy cấp đang diễn ra trên đất nước


Làm gì bây giờ?
1 - Đệ đơn kiện ngay Trung Quốc ra Tòa Trọng tài Luật Biển Quốc tế.
Không nên chần chừ, không việc gì phải e ngại đối với khả năng Trung Quốc trả đũa về kinh tế. Hãy noi gương Phillipine. Hơn một năm qua, từ ngày bị kiện (1-2013), Trung Quốc chưa đưa ra được một đòn kinh tế nào đáng kể đối với Phillipines. Chẳng những thế, uy tín của tổng thống Philippines đã lên cao, toàn dân càng xiết chặt khối đại đoàn kết để cùng đương đầu.
Sự xâm nhập về kinh tế của Trung Quốc đang gây cho ta nhiều hệ lụy, nếu họ dở trò trừng phạt kinh tế thì “ta biêu đầu, họ cũng sứt trán”, đồng thời sẽ tạo điều kiện để ta hạn chế bớt những hệ lụy đang tiềm ẩn nhiều hậu họa khôn lường.
Nhẽ ra, ta đã phải đưa vấn đề Hoàng Sa ra Liên Hiệp Quốc từ lâu, và nếu vậy thì hôm nay đã không có việc họ dám đưa HD 981 vào vùng biển Hoàng Sa này.
2 - Nhanh chóng thiết lập liên minh quân sự với Hoa Kỳ
Hủy diệt HD 981 là khả năng trong tầm tay của ta nhưng e rằng ta không thể đương đầu với Trung Quốc trong trận chiến mở rộng trên Biển Đông.
Chỉ hiểu nội lực là sức mạnh của riêng mình thì dù có vươn lên mạnh mẽ gấp mấy cũng chưa thể đương đầu với Trung Quốc trên Biển Đông. Nội lực phải gồm cả khả năng huy động được sức mạnh của quốc tế gộp vào cho mình. Sức mạnh quốc tế mà hiện nay ta có thể huy động chủ yếu nằm ở Hoa Kỳ. Tiềm lực quân sự các nước Đông Nam Á không lớn. Trong các cường quốc quân sự trên thế giới hiện nay, Hoa Kỳ là một trong mấy nước sẵn sàng chia sẻ với ta hơn cả về mối quan tâm đối với quyền tự do hàng hải trên Biển Đông.
Thực tế lịch sử và phân tích logic cho biết Hoa Kỳ không có nhu cầu (và không còn dám) xâm lăng hoặc đô hộ Việt Nam như âm mưu của bè lũ Đại Hán, cho nên liên minh quân sự với Hoa Kỳ thông qua những ràng buộc bởi những cam kết chặt chẽ sẽ không thể uy hiếp nền độc lập của ta.
Liên minh với Hoa Kỳ, dựa vào Hoa Kỳ không thể xem là hèn, là thương tổn lòng tự hào dân tộc. Không một ai trên thế giới có thể nghi ngờ về ý chí tự lực, tự cường và tinh thần tự tôn dân tộc của người Nhật.
Liên minh với Hoa Kỳ cũng không thể xem là cớ chọc giận Trung Quốc bởi vì Liên minh Việt Nam – Hoa Kỳ không phải để chống Trung Quốc mà là để bảo vệ Biển Đông của ta.
Vừa kết thúc bài viết, nước mắt tôi bỗng giàn giụa khi nghe ca sỹ Nhật Thủy đăng quang ngôi vị Idol Việt Nam 2014 bằng ca khúc “Tự nguyện” với câu hát hào hùng mê đắm “Là người, một lần khi nằm xuống, cùng anh em đứng lên phất cao ngọn cờ”. Thất vọng về bản thân đã gìà (gần 80), thất vọng về những người lãnh đạo, nhưng tôi hoàn toàn tin vào tuổi trẻ Việt Nam, hoàn toàn tin vào dân tộc tôi.
Hà Nội 11 tháng 5 năm 2014 
Nguyễn Thanh Giang 
Số nhà 6 ngõ 235 đường Trung Văn
Phường Trung Văn – Quận Nam Từ Liêm – Hà Nội 
Hotline: 0984 724 165




Trung Quốc bác tuyên bố chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa

Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Tần Cương nói 'Việt Nam luôn đi ngược lại lời nói của mình' và rằng 'độ khả tín của nước này rất thấp'.
Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Tần Cương nói 'Việt Nam luôn đi ngược lại lời nói của mình' và rằng 'độ khả tín của nước này rất thấp'.

Trung Quốc gọi tuyên bố chủ quyền của Việt Nam đối với các đảo tranh chấp ở Biển Đông là "hết sức nực cười", sau khi Bộ Ngoại giao Việt Nam tổ chức họp báo quốc tế hôm thứ Sáu nhấn mạnh tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa.
 
Theo tin của thông tấn xã Reuters, trong buổi họp báo hôm thứ Hai, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Tần Cương nói rằng quần đảo Tây Sa (tức Hoàng Sa theo cách gọi của Việt Nam) đã là một phần lãnh thổ của Trung Quốc từ đời nhà Hán.
 
Ông Tần còn nói rằng “Việt Nam luôn đi ngược lại lời nói của mình” và rằng “độ khả tín của nước này rất thấp.”
 
Phát ngôn viên này viện dẫn công hàm năm 1958 của Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Phạm Văn Đồng mà, theo lời ông, ủng hộ tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc.
 
Căng thẳng giữa Việt Nam và Trung Quốc dâng cao đột biến trong những tuần gần đây sau khi Bắc Kinh đưa một giàn khoan vào khu vực Việt Nam nói thuộc thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của mình.
 
Động thái này của Bắc Kinh khiến nhiều cuộc biểu tình chống Trung Quốc nổ ra khắp Việt Nam. Một số vụ bạo động làm vài công dân Trung Quốc thiệt mạng và gây thiệt hại cho hàng trăm doanh nghiệp do Trung Quốc sở hữu.





Việt Nam gìn giữ, bảo tồn và phát triển tài nguyên biển ra sao?

Gia Minh
Bản đồ 9 quốc gia thuộc

Việt Nam có vị trí địa lý là một quốc gia ven biển với đường bờ biển kéo dài hơn 3000 kilomet.



Từ rất lâu, cụm từ ‘rừng vàng, biển bạc’ được sử dụng đế nói đến nguồn tài nguyên phong phú của đất nước với một đại dương bao la như thế. Tuy nhiên, gần đây dư luận dậy sóng vì tình hình Trung Quốc lấn lướt tuyên bố chủ quyền những vùng biển mà lâu nay là ngư trường truyền thống cũng như là khu vực khai thác dầu mỏ của Việt Nam.
Tuy nhiên tự thân Việt Nam đã gìn giữ, bảo tồn và phát triển nguồn tài nguyên đó ra sao?
Vấn đề này được một số các chuyên gia ngành hải dương học Việt Nam đánh giá trong chuyên mục Khoa học- Môi trường kỳ này và kỳ sau.

Nguồn tài nguyên biển

Tổng hợp tin tức từ nhiều nguồn đều cho thấy Biển Đông là khu vực chứa đựng nguồn tài nguyên tự nhiên phong phú và có một vị trí quan trọng đối với hoạt động lưu thông hàng hải…
Biển Đông có diện tích khoảng 3 447 000 kilomet vuông và là biển lớn thứ ba trong số các biển trên Trái Đất. Biển Đông trải rộng từ vĩ độ 3 đến vĩ độ 26 Bắc, và từ kinh độ 100 đến 121 Đông. Đây là một biển nửa kín được bao bọc bởi 9 quốc gia gồm Trung Quốc, Philippines, Indonesia, Brunei, Malaysia, Singapore, Thái Lan, Kampuchia và Việt Nam.
Độ sâu trung bình của Biển Đông là 1140 mét. Vùng có độ sâu nhất đo được 5559 mét. Những nơi có độ sâu hơn 2000 mét tại Biển Đông chiếm tổng cộng một phần tư.
Tại vùng biển này cho đến nay đã phát hiện được khoảng 11 ngàn loài sinh vật cư trú trong hơn 20 kiểu hệ sinh thái điển hình. Trong số này có khoảng 6 ngàn loài động vật đáy, hơn 2 ngàn loài cá, hơn 3 ngàn loài san hô cứng, hơn 650 loài rong biển…
Biển Đông có diện tích hơn 3400 triệu kilomet vuông và là biển lớn thứ ba trong số các biển trên Trái Đất....Đây là một biển nửa kín được bao bọc bởi 9 quốc gia gồm Trung Quốc, Philippines, Indonesia, Brunei, Malaysia, Singapore, Thái Lan, Kampuchia và Việt Nam
Biển Đông được xem là một trong 5 bồn trũng chứa dầu khí lớn nhất thế giới. Tại vùng biển và thềm lục địa Việt Nam đã xác định được nhiều bể trầm tích có triển vọng dầu khí. Theo đánh giá của Bộ Năng Lượng Hoa Kỳ thì lượng dự trữ dầu được kiểm chứng tại Biển Đông là 7 tỷ thùng với khả năng sản xuất 2,5 triệu thùng mỗi ngày.
Biển Đông được đánh giá là tuyến đường vận tải quốc tế nhộn nhịp thứ hai của thế giới. Đây là tuyến giao thông biển nối liền Thái Bình Dương- Ấn Độ Dương, Trung Đông- Châu Á, Châu Âu- Châu Á. Những quốc gia được cho phụ thuộc lớn vào tuyến đường này gồm có Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan, Singapore. Trong khu vực Đông Nam á có gần 530 cảng biển.
Du lịch biển cũng là một tiềm năng của khu vực Biển Đông. Riêng Việt Nam có khoảng 125 bãi biển từ bắc xuống nam thuận tiện cho hoạt động du lịch.



Rong biển và san hô (ảnh minh họa)
Rong biển và san hô (ảnh minh họa)

Hiện trạng khai thác

Vậy trong thời gian qua Việt Nam khai thác những tiềm năng lớn lao đó của khu vực biển thuộc Việt Nam ra sao?
Giáo sư- Tiến sĩ Lê Đức Tố, Chủ nhiệm Công trình khoa học về Công nghệ Biển phục vụ phát triển bền vững kinh tế xã hội đánh giá:
Thông tin trên báo chí và truyền thông của Việt Nam nói đã nhiều. Hiện nay trong nền kinh tế của Việt Nam, biển đóng vị trí quan trọng nhưng biển chưa trở thành nguồn lực lớn nhất trong tất cả các nguồn lực của Việt Nam. Tuy nhiên Nhà nước Việt Nam hiện đang phấn đấu trong một thời gian ngắn đưa tiềm lực của biển trở thành nguồn lực lớn nhất cho phát triển kinh tế của đất nước.
Do phát triển kinh tế trong vòng 20 năm gần đây, do nhận thức của người dân về môi trường không được đầy đủ nên dẫn đến việc khai thác làm cho cạn kiệt tài nguyên. Nhưng Việt Nam đã nhận thức được giá phải trả cho việc khai thác bất hợp lý đó; hiện nay các địa phương đã suy nghĩ đến việc bảo tồn các hệ sinh thái
GSTS Lê Đức Tố
Trong các nguồn lực của biển thì mọi người cũng đã hiểu không những chỉ có nguồn lợi về thủy sản, nguồn lợi về khoáng sản ( trong đó có dầu khí), nguồn lợi về giao thông, nguồn lợi về du lịch và các nguồn lợi khác liên quan đến sự sống.
Do phát triển kinh tế trong vòng 20 năm gần đây, do nhận thức của người dân về môi trường không được đầy đủ nên dẫn đến việc khai thác làm cho cạn kiệt tài nguyên. Nhưng Việt Nam đã nhận thức được giá phải trả cho việc khai thác bất hợp lý đó; hiện nay các địa phương đã suy nghĩ đến việc bảo tồn các hệ sinh thái, ví dụ như vùng biển Vịnh Vân Phong, ven biển của Khánh Hòa, hiện nay người dân tự nguyện đứng ra bảo tồn các hệ sinh thái trong vùng. Điều đó đã đem lại một số kết quả. Thứ hai, một số vùng đảo người ta đã xây dựng được các khu bảo tồn và duy trì được các hệ sinh thái làm cho nguồn lợi ở các vùng đó được phục hồi. Điển hình như Cát Bà, rồi các vùng đảo Vịnh Bắc Bộ hiện đã có các khu bảo tồn. Việc đó đóng góp lớn cho việc bảo tồn các hệ sinh thái và môi trường vùng ven biển.


Chợ cá (ảnh minh họa)
Chợ cá (ảnh minh họa)


Giáo sư Nguyễn Tác An, nguyên trưởng Viện Hải Dương học cho biết:
Vừa qua Nhà nước Việt Nam bỏ ra rất nhiều tiền để triển khai các nhiệm vụ gọi là bảo tồn và phát triển quĩ gien, kể cả sinh vật trên rừng- dưới biển. Kết quả là tương đối có thể chấp nhận được. Tuy nhiên vấn đề ô nhiễm, vấn đề tai biến nho nhỏ vẫn chưa quản lý được. Xu thế môi trường hiện đạt tiêu chuẩn cho phát triển các ngành kinh tế, tuy nhiên cục bộ nhất là các vùng ở khu công nghiệp, các khu đô thị lớn, các vùng cửa sông vẫn có hiện tượng ô nhiễm cục bộ, xuất hiện hiện tượng ‘dung dưỡng hóa’ mặt nước. Đó là những biểu hiện mang tính cục bộ nhưng cũng rất đáng lo ngại.
Các hệ sinh thái quan trọng như san hô, cỏ biển, rừng ngập mặn cũng đã được chú ý phục hồi; tuy nhiên vẫn chưa đạt được sự mong muốn của xã hội.
Vừa qua Nhà nước Việt Nam bỏ ra rất nhiều tiền để triển khai các nhiệm vụ gọi là bảo tồn và phát triển quĩ gien, kể cả sinh vật trên rừng- dưới biển. Kết quả là tương đối có thể chấp nhận được. Tuy nhiên vấn đề ô nhiễm, vấn đề tai biến nho nhỏ vẫn chưa quản lý được
Giáo sư Nguyễn Tác An
Gíao sư Đinh Văn Ưu, Khoa Hải Dương Học, Đại học Hà Nội trình bày:
Các công bố chính thức xưa nay chưa thay đổi gì nhiều; chỉ có nếu nói tiềm năng biển- nói một cách đơn giản hơn là các tài nguyên của biển, được đánh giá một cách đa dạng hơn. Trước đây chỉ có liên quan đến các nguồn tài nguyên từ lòng đất, từ trong nước… Hiện nay đánh giá về tài nguyên vị thế, tài nguyên du lịch… được toàn diện hơn nên chúng ta không thể chỉ dựa vào một nguồn tài nguyên khoáng sản hoặc tài nguyên sinh vật mà đánh giá toàn diện hơn!
Ts Nguyễn Hữu Đại, trưởng phòng thực vật Biển, Viện Hải dương học Nha trang nhận xét:
Theo nhận định của tôi thì nguồn tài nguyên biển càng ngày càng suy giảm và hiện nay người dân tự vào bản năng, người ta tìm cách nuôi trồng. Nguồn chính cho cung cấp là do nuôi trồng, còn nguồn chính thì càng ngày càng cạn kiệt. Cạn kiệt một cách ghê gớm, nhanh chóng.
Trừ đánh bắt xa bờ ở vùng đảo Hoàng Sa, Trường Sa hay đảo Thổ Chu ở phía nam, còn đánh bắt vùng ven bờ, vùng ven lục địa của mình thì cạn kiệt tài nguyên hết; nhất là những đầm phá ven bờ của mình cạn kiệt toàn bộ. Không được quản lý một cách chặt chẽ nên theo nhận định của tôi sắp đến nguồn tài nguyên của mình sẽ bị suy giảm một cách ghê gớm lắm.
Người dân được sự hổ trợ một ít của Nhà Nước, còn lại do bản năng họ phải nuôi trồng.


Chương trình Nhà nước
Trong thực tế, chính quyền Việt Nam cũng có những chương trình nhằm khai thác nguồn tài nguyên biển thiên nhiên ban tặng cho Việt Nam, cũng như hạn chế những tác động bất lợi nhằm bảo tồn và phát huy nguồn vốn quí đó.
Giáo sư- Tiến sĩ  Lê Đức Tố cho biết:

Trong giới hạn vùng ven bờ của Việt Nam hiện nay có những chương trình làm khá tốt, ví dụ như đã xây dựng được 15 khu bảo tồn biển dọc theo bờ biển Việt Nam từ bắc xuống nam. Đó là điểm lớn nhất về vấn đề bảo vệ môi trường.
Thứ hai có kết quả về quá trình nghiên cứu đánh giá những diễn biến môi trường sinh thái dọc bờ biển Việt Nam, từ bắc xuống nam, trong giới hạn từ 50 mét nước trở vào.
Còn nữa là những kết quả nghiên cứu đánh giá về vùng biển nông ven bờ ví dụ như lập bản đồ địa hình, bản đồ về địa mạo, bản đồ về địa chất ở giới hạn từ 30 mét nước vào đến sát bờ.
Nói chung người ta cũng vạch ra chiến lược 10 năm, 15 năm, 20 năm, nhưng thực sự để giải quyết vấn đề một cách có hiệu quả thì còn xa vời và không có thực tế. Phải điều chỉnh mãi mà không bao giờ đạt được. Rất khó!
tiến sĩ Nguyễn Hữu Đại

Giáo sư Đinh Văn Ưu trình bày:
Nói thực ra Nhà Nước cũng có định hướng rồi, tức là Đảng đưa ra nghị quyết hồi năm 2007 về chiến lược phát triển kinh tế biển đến năm 2020. Trong đó vấn đề bảo vệ môi trường biển cũng được đưa ra, hoặc khai thác các nguồn tài nguyên biển cũng được đưa ra. Đặc biệt trong lĩnh vực bảo tồn biển đã có quyết định xây dựng 20 khu bảo tồn khác nhau trên cả nước. Tôi nghĩ rằng đó cũng là một bước đã có định hướng tương đối đúng rồi. Chỉ có điều là trên từng phạm vi khu vực cụ thể liên quan đến từng phạm vi nhỏ của một số khu công nghiệp, vùng cảng… thì có lẽ hiện tượng suy thoái môi trường có thể xảy ra nhưng chỉ trên phạm vị cục bộ thôi; chứ còn trên phạm vi lớn chưa thấy có vấn đề gì đặc biệt.
Đối với Việt Nam hiện nay vấn đề pháp luật hóa đối với vấn đề bảo vệ môi trường biển có lẽ phải từng bước. Một điều là việc quản lý Nhà nước của Việt Nam, không chỉ lĩnh vực biển, mà các lĩnh vực nói chung là phân tán. Tức là nhiều đơn vị, nhiều ngành quản lý khác nhau, do đó trong thời gian tới cần phải có phối hợp trong một chiến lược chung là điều cần thiết. Những định hướng đó hiện nay đều có cả nhưng lại nằm trong các chương trình, các dự án riêng biệt, ví dụ liên quan đến thích ứng biến đổi khí hậu, liên quan đến bảo tồn đa dạng sinh học, liên quan đến phát triển bền vững. Tất cả đều có đưa ra nhưng cơ bản chưa thành thống nhất. Tôi nghĩ cần phải có một thời gian nữa mới có một chiến lược thống nhất bảo vệ môi trường biển kết hợp nhiều yếu tố khác nhau từ phát triển kinh tế, thích ứng với biến đổi khí hậu cho đến
Và ý kiến thẳng thẳn của tiến sĩ Nguyễn Hữu Đại về các chương trình nghiên cứu trong lĩnh vực hải dương, biển của Việt Nam:
Nói chung người ta cũng vạch ra chiến lược 10 năm, 15  năm, 20 năm, nhưng thực sự để giải quyết vấn đề một cách có hiệu quả thì còn xa vời và không có thực tế. Phải điều chỉnh mãi mà không bao giờ đạt được. Rất khó!
Quí thính giả vừa nghe một số nhận định của các chuyên gia ngành hải dương học tại Việt Nam về thực tế khai thác tiềm năng biển của Việt Nam.
Trong chương trình kỳ tới, các chuyên gia vừa nói tiếp tục trình bày những khó khăn trong lĩnh vực nghiên cứu, hợp tác để khảo sát, đánh giá khu vực biển rộng lớn thuộc Biển Đông của Việt Nam và những quốc gia lân cận.
Mục Khoa học- Môi trường kỳ này tạm dừng tại đây. Hẹn gặp lại quí vị và các bạn trong chương trình kỳ tới.





Trung Quốc nói Việt Nam ‘lố bịch’


Ông Tần Cương lên án Việt Nam là 'lố bịch'


Trung Quốc nói tuyên bố chủ quyền của Việt Nam với quần đảo Hoàng Sa là “lố bịch” trong bối cảnh quan hệ song phương rạn nứt vì vụ giàn khoan HD-981.

Hôm 23/5 tại một cuộc họp báo ở Hà Nội, ông Trần Duy Hải, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới Quốc gia nói Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý và bằng chứng lịch sử để khẳng định chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Đáp trả lại, trong cuộc họp báo ngày 26/5, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc nói: “Về việc Bộ Ngoại giao Việt Nam tổ chức họp báo vào thứ Sáu tuần trước, tôi cảm thấy hết sức lố bịch.”
Ông Tần Cương nói tiếp: “Quần đảo Tây Sa [tức Hoàng Sa] là lãnh thổ không thể tranh cãi của Trung Quốc.”
Người phát ngôn của Trung Quốc lên án Việt Nam “bóp méo lịch sử, bác bỏ sự thật, tự mâu thuẫn mình và phản bội ngôn từ của chính mình”.
“Vị thế quốc tế của nước này rất thấp,” ông Tần Cương lớn tiếng.
Bộ Ngoại giao Việt Nam chưa có phản hồi về những lời nói của người phát ngôn ngoại giao Trung Quốc.
Trước đó tại cuộc họp báo trước đó của Bộ Ngoại giao Việt Nam, Việt Nam đã nhấn mạnh tuyên bố chủ quyền dựa trên lịch sử của Việt Nam với Hoàng Sa và Trường Sa.
Ông Trần Duy Hải nhấn mạnh Trung Quốc “không có bất cứ chứng lý nào” chứng minh chủ quyền đối với hai quần đảo.
Căng thẳng giữa hai nước leo thang sau khi Việt Nam cáo buộc Trung Quốc đưa một giàn khoan vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Phát biểu trong chuyến thăm Philippines và tham dự Diễn đàn Kinh tế Thế giới Đông Á tuần trước, thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng phê phán Bắc Kinh “vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế”, và cho biết sẽ xem xét những “hành động pháp lý phù hợp” để giải quyết tranh chấp với Trung Quốc.
Vào Chủ nhật vừa qua, Việt Nam đã bắt đầu tiến hành các phiên tòa đầu tiên xét xử nghi phạm tham gia các vụ “bạo động, gây rối và hôi của”, sau khi làn sóng biểu tình chống Trung Quốc biến thành bạo loạn vào trung tuần tháng Năm.


Tàu hai nước va chạm quanh giàn khoan HD-981


Hai trong số các bị cáo ở tỉnh Bình Dương đã bị kết án từ một năm tới ba năm vì các hành vi “gây rối, phá hoại và trộm cắp” tài sản của doanh nghiệp.
“Chúng tôi không nghĩ rằng như vậy là đủ,” phát ngôn nhân Tần Cương của Bộ Ngoại giao Trung Quốc nói về phiên toà.
Ông này yêu cầu Việt Nam điều tra thấu đáo vụ bạo loạn trong thời gian sớm nhất, “trừng trị nghiêm khắc tội phạm”, bồi thường cho các doanh nghiệp và cá nhân chịu thiệt hại, đồng thời bảo đảm an toàn cho doanh nghiệp và công dân Trung Quốc tại Việt Nam, Tân Hoa Xã đưa tin.
“Chỉ như vậy cộng đồng quốc tế mới lấy lại được niềm tin với Việt Nam,” ông Tần nói.

‘Bị tàu Trung Quốc đâm chìm’

Trong khi đó, Đài Truyền hình Việt Nam (VTV) ngày thứ Hai đưa tin một tàu cá Việt Nam bị tàu cá Trung Quốc đâm chìm ở khu vực cách giàn khoan HD-981 khoảng 17 hải lý.

Trung Quốc nói không có tranh chấp ở quần đảo Hoàng Sa

Mười ngư dân rơi xuống biển nhưng sau đó được lực lượng cứu hộ Việt Nam cứu lên. Hiện đang có 40 tàu cá Trung Quốc đang bao vây tàu cá của Việt Nam ở khu vực trên, VTV đưa tin.

CHXHCN Việt Nam “phủ định” hiệu lực pháp lý của Công hàm 1958
Hôm 23/5/2014, Chính phủ CHXHCN Việt Nam tuyên bố rằng công hàm của Chính phủ VNDCCH do Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký ngày 14/9/1958 phúc đáp Tuyên bố của ngày 04/09/1958 Chính phủ CHNDTH trên là vô hiệu lực pháp lý, vì vào thời điểm đó Chính phủ VNDCCH không quản lý các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (Tây Sa và Nam Sa), mà là Chính phủ Việt Nam Cộng hòa (VNCH)! Tức là, “VNDCCH không thể cho CHNDTH cái mà mình không có, không quản lý; hay: Người ta không thể từ bỏ cái mà người ta không sở hữu”. Nhiều người cho rằng đó là lập luận thuyết phục!
Như vậy, CP CHXHCN VN cho rằng việc chính mình (CP VNDCCH trước đó) ngày 14/9/1958 đã công nhận chủ quyền của TQ đối với các quần đảo HS và TS là vô hiệu lực pháp lý.
Theo tôi, CP CHXNCH VN lập luận và tuyên bố như trên để coi Công hàm PVĐ vô hiệu lực là đánh tráo khái niệm một cách rất ấu trĩ và vì thế sai hoàn toàn. Bởi vì, người ta hoàn toàn có thể từ bỏ quyền sở hữu cái mà người ta không sở hữu bằng cách xác nhận cái đó thuộc quyền sở hữu của người khác. Và công hàm PVĐ đã làm điều đó. Công hàm PVĐ đã xác nhận (ghi nhận và tán thành) hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của Trung quốc, bất kể lúc đó chúng đang do ai quản lý.
Kết quả tất nhiên là, Công hàm PVĐ trên của VNDCCH vẫn có hiệu lực cho đến nay: xác nhận quyền sở hữu của TQ đối với HS và TS, tức là phủ nhận quyền sở hữu của VN (hay bất cứ ai) đối với hai quần đảo và vùng biển đó.
Chính phủ VN có biết rằng việc họ phủ nhận công hàm PVĐ của họ như thế là hề và vô ích không? Tôi tin là họ biết, TQ càng biết rõ, vì thế họ mới để cho một cán bộ cấp thấp như thế nói ra điều đó. Còn nếu điều đó thực sự đúng và có hiệu quả, sẽ giúp VN đòi được HS, TS từ tay TQ thì mấy kẻ “tứ trụ” điếm, nhất là 3X, sẽ giành nói ngay nói lớn để ghi công lớn cho mình rồi. Một công lớn cỡ đó đủ để 3X ngồi ghế CTN và TBT như Tập hay Tổng thống như Putin trong 10 năm nữa chứ bỡn?
Biết vậy tại sao họ vẫn làm thế? Là để đóng kịch trước nhân dân Việt Nam rằng họ “vô can”. Tất cả là tại TQ tham lam và bành trướng mà thôi..., nhưng họ “sợ bát nước đổ đi không hót lại được” nên họ sẽ không kiện TQ ra tòa QT - mà chỉ “dọa TQ” thôi... để giữ “bát nước Tàu cho” mà húp chứ...!
Các quan điểm khác cho rằng công hàm PVĐ vô hiệu lực
Ngoài quan điểm và tuyên bố chính thức mới nhất trên về hiệu lực của Công hàm PVĐ dựa trên bối cảnh thực tế thời điểm VNDCCH ký công hàm, còn có vài quan điểm khác cũng cho rằng công hàm đó vô hiệu lực pháp lý do bối cảnh hay do hành văn ẩn ý, như:
1. Công hàm PVĐ chỉ nói đến lãnh hải 12 hải lý chứ có nói đến HS TS đâu? Đây là cách lừa dân thô thiển của CSVN khi họ nói đến công hàm PVĐ mà không đưa ra cho Tuyên bố ngày 4/9/1958 của TQ chính là nguyên nhân phải có công hàm đó. Có người còn nghi ngờ rằng công hàm VN và Tuyên bố TQ là do cùng một nhóm soạn thảo từ trước, PVĐ chỉ việc ký thôi.
(Có người còn đùa: Chủ nhật 14/9/58, Bác gọi chú Đồng sang Phủ Chủ tịch chơi rồi đưa công hàm Bác đã đánh máy sẵn để chú ký mang về VPCP bên cạnh để gửi ngay đi Bắc Kinh...)
2. Chữ ký của PVĐ không có hiệu lực vì PVĐ là thủ tướng lúc đó do đảng phân công, không đúng trình tự được qui định cho việc bổ nhiệm Thủ tướng trong Hiến pháp 1946 (đang “có hiệu lực” lúc đó) qui định Thủ tướng do Chủ tịch nước chọn từ Nội các rồi phải được Quốc hội phê chuẩn... Vì thế, người đứng đầu chính phủ VNDCCH lúc đó là HCM, không phải PVĐ.
3Thủ tướng PVĐ không có quyền hạn tự ký công hàm về các vấn đề lãnh thổ mà phải được Quốc hội đồng ý và phê chuẩn quan điểm, nội dung trước đó. Có nghĩa là PVĐ đã ký công hàm 1958 vượt quyền hạn cho phép...
4Công hàm PVĐ chỉ là thư công ngoại giao (diplomatic notes), không có hiệu lực pháp lý quốc tế....?
Trong các lập luận trên, chỉ có lập luận đầu tiên hay được nói đến là đáng bàn kỹ thêm, đó là, công hàm PVĐ vô hiệu lực vì hành văn ẩn ý của nó tránh nói đến HS và TS. Vậy nên hiểu thế nào về câu: “Chính phủ nước VNDCCH ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4/9/1958 của Chính phủ nước CHNDTH, quyết định về hải phận của Trung Quốc.” Đây là câu phức hợp có hai mệnh đề tách nhau bởi dấu phẩy mà mệnh đề chính đi trước, mệnh đề sau là phụ.
Có người nói, đó là CPVN chỉ ghi nhận và tán thành phần quyết định về hải phận 12 hải lý của TQ mà thôi, để biện minh cho tính vô tội của công hàm PVĐ. Hiểu thế có đúng không? 
Mệnh đề chính nói đến Tuyên bố ngày 04/9/1958 của TQ và VN hoàn toàn tán thành 4 điểm chính của nó, và thế là hoàn toàn đủ ý trọn câu, có thể chấm hết câu ở đây: “Chính phủ nước VNDCCH ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4/9/1958 của Chính phủ nước CHNDTH.” Nếu Tuyên bố của TQ đó có một số hiệu văn bản riêng và rõ ràng (như ngày nay mọi công ty con tý nhất khi ra bất kỳ văn bản nào đó cũng phải có số công văn bên cạnh ngày ra công văn để phân biệt và lưu trữ thông tin), thì câu trên chỉ cần ghi cả mã số của Tuyên bố của TQ đó là xong, không cần có mệnh đề phụ sau dấu phẩy để phân biệt với ác tuyên bố khác nếu có nữa. 
Chính vì TQ đã không có số văn bản cho Tuyên bố ngày 04/9/1958 nên nếu trong ngày đó TQ phát ra nhiều hơn 2 tuyên bố gì đó thì trả lời ngày 14/9/1958 của VN (cũng lại không có mã số văn bản, dù là chỉ cho nhu cầu lưu trữ!) sẽ khó hiểu, vì không biết là cho Tuyên bố nào của TQ. Vì thế, công hàm của PVĐ ký trong câu đầu dù đã đủ trọn ý muốn nói là ghi nhận và tán thành hoàn toàn Tuyên bố ngày 4/9/58 của TQ, bao gồm cả việc Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ và lãnh hải của Trung quốc rồi, thì PVĐ vẫn phải có thêm mệnh đề phụ để nói rõ là mình ghi nhận và tán thành cái tuyên bố nào của TQ! Thế thôi… Có hay không có mệnh đề phụ ở câu đầu thì ý chính vẫn đã trọn như thế, và câu sau chỉ là “xin hứa” về cách triển khai thực hiện sự tôn trọng hải phận 12 hải lý của TQ để tạo cảm giác là công hàm chỉ nói đến hải phận 12 hải lý?! Nhưng tất cả đã được định đoạt trong một mệnh đề chính của câu đầu tiên của công hàm PVĐ rồi. 
Còn nếu PVĐ (hay HCM) muốn nói tôi chỉ ghi nhận và tán thành phần về hải phận 12 hải lý trong tuyên bố ngày 04/9/1958 của TQ thì Chính phủ VN phải viết (bằng tiếng Việt) như sau: 
“Chính phủ nước VNDCCH ghi nhận và tán thành phần về hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong bản tuyên bố ngày 4/9/1958 của Chính phủ nước CHNDTH. Riêng phần về lãnh thổ TQ bao gồm cả quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa của VN chúng tôi) và Nam Sa (Trường Sa của VN chúng tôi) thì chúng tôi xin không đồng ý và đề nghị đồng chí Tổng lý xem lại trên tinh thần “môi hở răng lạnh” mà Mao Chủ tịch đã dạy bảo chúng ta...
Hẳn đồng chí Tổng lý còn nhớ cách đây 4 năm ở Hội nghị Geneve đồng chí đã khuyên tôi cắt phần đất và biển đảo VN sau Vĩ tuyến 17 về phía Nam, bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, cho chính quyền ông Ngô Đình Diệm tạm thời quản lý, để sau này các đồng chí sẽ giúp chúng tôi xây dựng XHCN mạnh hơn rồi mới giúp chúng tôi lấy lại phần đất và biển đảo đó? 
Về phần biển phía Bắc Vĩ tuyến 17, Chính phủ nước VNDCCH tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc, trong mọi quan hệ với nước CHNDTH trên mặt bể. ”
By the way, tiện thể, tôi rất ngạc nhiên khi thấy đến 1958 và ở cấp cao nhất (chính phủ) với các vấn đề quan trọng nhất (lãnh thổ, lãnh hải) mà chính phủ cả TQ và VN đều chưa áp dụng chế độ mã số công văn giao dịch nội ngoại để theo dõi, phân biệt, lưu trữ và bảo quản tài liệu, thông tin? Hay là chỉ có hai công văn (Tuyên bố 4/9/58 và công hàm 14/9/58) trên là ngoại lệ “ngoài luồng”, không do và không qua hệ thống văn thư của VPCP VN viết ra và lưu trữ? Việc này có thể kiểm tra khá dễ dàng nếu hai chính phủ muốn làm sáng tỏ?
Còn nhớ, có lần tôi đã hỏi ba tôi: Ba ơi, mấy ký mã hiệu trong góc giấy khai sinh của chị và con sao lại giống nhau dù chúng con được sinh ở hai thành phố khác nhau (HN và NĐ)?Ba tôi thú nhận: Hồi 1958, sau khi các con sinh ra, lúc đó ba là thư ký một nhà máy cơ khí ở HN và ba đã tự đánh máy giấy khai sinh của các con, tự cho số mã hiệu vào đó cho giống văn thư nhà nước, tự mua tem dán vào như là có công chứng… để các con có tiêu chuẩn làm sổ gạo cùng ba mẹ, không thì nhà ta đói to... Như thế có nghĩa là, năm 1958, ba tôi, một chiến sĩ quân giới tiểu đoàn 307, mới có tiểu học đã bỏ đi làm ở Ba Son, rồi đi bộ đội, còn biết cho mã số vào giấy khai sinh của chúng tôi cơ mà?...

Tại sao nói CPVN không thể phủ nhận hiệu lực pháp lý của công hàm PVĐ?
Trước khi trình bày quan điểm của mình cho rằng dù CP CHXHCN VN hiện nay có nói gì thì công hàm PVĐ vẫn có hiệu lực pháp lý, tôi xin nói rõ mong muốn của cá nhân tôi cũng như của đại đa số người Việt Nam thôi, rằng giá mà công hàm PVĐ vô hiệu lực, hoặc giá mà không hề tồn tại công hàm PVĐ thì tốt hơn cho dân tộc Việt Nam. Nhưng chúng ta vẫn cần phải đối diện sự thực để vượt qua nó.

Thứ nhất, công hàm PVĐ là một văn bản pháp lý quốc tế thể hiện quan điểm chính thức của Chính phủ VNDCCH, nay là CHXHCN VN mà PVĐ là Thủ tướng của cả hai chính phủ đó trong hơn 32 năm (1947-1975: VNDCCH, 1975-1979: CHXHCNVN) về một vấn đề quốc tế: về lãnh thổ và lãnh hải của TQ. Quan điểm đó tồn tại chừng nào chính phủ đó hay hậu duệ và/hoặc thừa kế của nó tồn tại mà không có công hàm pháp lý chính thức khác cấp cao hơn bác bỏ hay phủ nhận nó. 
Hiện nay, hậu duệ thừa kế của VNDCCH là CHXHCNVN chưa có văn bản pháp lý nào cấp cao hơn công hàm cấp Chính phủ do người đứng đầu CP ký như công hàm PVĐ ngày 14/9/1958 phủ nhận công hàm PVĐ thì công hàm PVĐ năm 1958 vẫn hoàn toàn còn hiệu lực.

Thứ hai, dù nội dung công hàm 1958 của PVĐ là xác nhận chủ quyền của TQ đối với hai quần đảo HS và TS là nơi lúc đó không thuộc quyền quản lý của Chính phủ VNDCCH thì sự công nhận đó vẫn có hiệu lực pháp lý đối với chính phủ ra công hàm đó, bởi vì quan điểm là cam kết hoặc là niềm tin.
Ví dụ, khi Thủ tướng Cămpuchia tuyên bố xác nhận HS và TS là của TQ thì công hàm đó có hiệu lực pháp lý không? Có. Chính phủ Campuchia có thể nói: "Vì tôi không quản lý HS và TS nên những gì tôi nói về HS và TS là không có giá trị pháp lý!" Không? Không! CP Campuchia cam kết gì qua tuyên bố đó? Họ cam kết rằng khi cần hành động liên quan đến HS và TS họ sẽ tuân theo ý muốn của TQ mà họ coi là chủ của HS và TS. Như thế, tuyên bố đó vẫn có giá trị pháp lý và Chính phủ Campuchia phải chịu mọi trách nhiệm về tuyên bố đó của mình. Nếu họ giữ nó – quan hệ với VN sẽ sứt mẻ có hại cho Cămpuchia, nếu không giữ nó, quan hệ với TQ sẽ sứt mẻ, sẽ không có 20 tỷ đôla viện trợ của TQ nữa... cho đến khi họ chính thức thay đổi quan điểm đó.

Thứ ba, trong trường hợp công hàm PVĐ năm 1958 của VN, VN không chỉ là bên thứ ba thể hiện quan điểm về vấn đề/sự việc của các bên khác, mà VN (DCCH) luôn tự tuyên bố mình mới là “kẻ thừa kế chính thức” lãnh thổ của chính phủ VNCH – tức là CP VNDCCH là “kẻ có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan”, lại càng không thể chạy trốn trách nhiệm và tuyên bố những gì mình nói là vô giá trị pháp lý.

Thứ tư, công hàm PVĐ là một công văn ngắn chỉ có hai câu và nội dung rất chung chung chỉ nhằm ghi nhận và tàn thành Tuyên bố ngày 4/9/1958 của TQ mà thôi, và bất kỳ chính phủ nào ký nó cũng phù hợp và cơ lợi cho TQ, và sự tán thành đó có thể có hiệu lực vượt thời gian. Ví dụ, nếu thay PVĐ và CPVN bằng Hunsen và CP CPC (hay Kim và CP Bắc TT...) thì ta có “công hàm” như:

“Kính gửi: đồng chí Chu Ân Lai
Tổng lý Quốc vụ viện nước CHNDTH
Kính thưa đồng chí Tổng lý,
Chính phủ nước Campuchia Dân chủ/CHNDTT ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4/9/1958 của Chính phủ nước CHNDTH, quyết định về hải phận của Trung Quốc. Chính phủ nước CPC DC/CHNDTT tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc, trong mọi quan hệ với nước CHNDTH trên mặt bể.
Hunsen/Kim
(đã ký và đóng dấu)
Thủ tướng Chính phủ nước CPC DC/CHNDTT”
Tức là ai ký cũng được, chỉ cần có người ký. Tức là công hàm này có thể đã được ai đó viết sẵn cho PVĐ ký thôi. 
Đó là chưa kể, cách hành văn không phải của người Việt của hai câu văn duy nhất của công hàm PVĐ đều giống nhau đó là cấu trúc câu hai mệnh đề chính trước phụ sau (người Việt thích nói phụ trước chính sau) và tách biệt nhau cộc lốc bởi dấu phẩy (người Việt sẽ thích dùng liên từ để nối hai mệnh đề cho câu văn mềm dẻo đi như “với”, “về” (cho câu đầu) hay bỏ dấu phẩy nếu không cần thiết (cho câu sau).
Tất cả những điều trên chỉ ra rằng, không chỉ nói một công văn nòa đó vô hiệu lực là nó vô hiệu lực. Nếu TQ dựa trên công hàm 1958 của PVĐ để “chứng minh” cho chủ quyền của họ đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trước Tòa án quốc tế, và bên nguyên đơn là chính phủ CSVN chính là kẻ đã ra công hàm đó, thì cái lý, cái chính nghĩa tất nhiên không còn thuộc về VN nữa, vì đã là kẻ viết và ký công hàm 1958 tự bán nước đó rồi. 
Thế cho nến, vấn đề ở đây là không chỉ là kiện TQ mà còn phải là ai kiện TQ – Chính phủ CSVN hay chính phủ khác của nhân dân VN? Bởi vì, đã là kiến thì không kiện được khoai, phải là đá…

Ai có thể phủ nhận tính pháp lý của công hàm PVĐ 1958?
Câu trả lời khá đơn giản, đó là chính phủ thừa kế và là hậu duệ chính trị của chính phủ đã quản lý HS TS và phản đối TQ đến cùng (bằng hành động chiến đấu bảo vệ HS) - chính phủ VNCH. Có nghĩa là, đó sẽ không phải là chính phủ CSVN hiện nay hay các biến thể trá hình của nó nếu có sau này. Có nghĩa là, đó sẽ phải là một chính phủ hậu cộng sản, một chính phủ dân chủ.
Nhưng nếu đó sẽ là một chính phủ hậu cộng sản, một chính phủ dân chủ của VN sau này, thì để đòi lại HS TS họ có cần phủ nhận công hàm PVĐ nữa không? Không. Cùng với sự sụp đổ của chính phủ cộng sản, mọi cam kết, thỏa thuận hay quan điểm của chính phủ CSVN với TQ tự động trở nên vô hiệu lực pháp lý. Lúc đó, TQ (nếu còn) thì cũng không thể dùng các loại thỏa thuận kiểu công hàm 1958 hay cam kết thành đô 1990 của đảng CSVN để xâm chiếm biển đảo và lãnh thổ Việt Nam được nữa.
Mọi điều cuối cùng đều dẫn đến một điểm đầu tiên: để bảo vệ lãnh thổ đất nước và tương lai Việt Nam đầu tiên phải hạ bệ chính phủ CSVN trước hết và thay bằng chính phủ dân chủ chính danh do toàn dân hơn 90 triệu người Việt khắp năm châu bầu ra để đại diện họ thừa kế non sông đất nước, lãnh thổ quốc gia mà dân tộc Việt Nam đã để lại cho đời sau, thì 90 triệu người Việt mới có thể cùng nhau đòi lại Hoàng Sa và một phần Trường Sa, và ải Nam Quan, thác Bản Giốc... từ tay Trung cộng mà CSVN đã cống nạp mới gần đây.


Những di sản làm chạm nọc người cộng sản

Ngô Việt (Danlambao) - Sau cuộc chiến tranh Việt Nam, những người cầm quyền hai bên Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) ít nhiều đã để lại các di sản ảnh hưỡng đến ngày nay. Bài này xin nói về hai trong số các di sản đó.

Di sản của ông Nguyễn Văn Thiệu
Ông Nguyễn Văn Thiệu là một tổng thống thua trận, nhưng di sản của ông ta để lại cho đến bây giờ vẫn làm chạm nọc người cộng sản, dù đó chỉ là một câu nói: "Đừng nghe cộng sản nói, mà hãy nhìn kỹ cộng sản làm." 

Rõ rằng câu nói đó của ông Thiệu không có ý gì khen chê cộng sản mà chỉ là lời đề nghị mọi người nên cẩn thận xem xét giữa lời nói và hành động của người cộng sản. Trong thời còn chiến tranh, lời của ông Thiệu ít được ai để ý. Nhưng khi cộng sản chiếm được miền nam, cai trị cả nước, hằng ngày chứng kiến những hành động và lời nói tuyên truyền của cộng sản, người dân mới ngộ ra câu nói của ông thiệu là đúng: người cộng sản luôn mị dân bằng lời tuyên truyền, nói một đường làm một nẻo. Nói láo là bản chất của người cộng sản. 
Ông Lê Văn Hiền (bí danh Tám Hiền), bí thư tỉnh ủy tỉnh Thuận Hải (gồm hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận nhập lại sau tháng 4/75) nghe nói trong một cuộc họp đảng ông ta đã phản bác lại lời nói của ông Thiệu rất ngộ, đại ý như sau: "Thằng Thiệu nói sai, nhưng các đồng chí làm sai thành ra thằng Thiệu nói đúng." 

À thì ra là như vậy. Các đồng chí của ông Tám Hiền làm sai, chứ bản thân ông Hiền không làm sai? Đảng Cộng Sản của ông không làm sai? 
Ông Lê Văn Hiền đã phản bác lời của ông Thiệu như vậy từ những năm đầu thập niên 1980 của thế kỷ trước. Rất tiếc cho đến nay đã bước qua hết thập niên thứ hai của thế kỷ 21, lời nói của ông Thiệu vẫn đúng, càng đúng bởi vì các đồng chí của ông Hiền càng ngày càng láo, láo có hệ thống. Và dù họ độc quyền báo chí, phát thanh, phát hình nhưng tiến bộ in tờ nét thành ra lối đưa tin tuyên truyền và mị dân của cộng sản không còn hiệu quả nữa rồi! 

Mới đây vụ giàn khoan HD 981 của Trung quốc đã dấy lên của phản đối của người Việt Nam. Báo lề đảng đăng bài Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh gọi điện thoại phản đối với người đồng nhiệm phía Trung quốc. Bài báo có đăng hình minh họa, ông Phạm Bình Minh áp ống nghe vào tai trong lúc chiếc máy điện thoại lại không cắm dây nối mạng điện thoại. Tấm hình này lập tức bị cộng đồng mạng, nhất là trên các trang facebook phân tích diễu cợt, cho là cuộc phản đối của ông Phạm Bình Minh chỉ là ba sạo, không có thực (vì làm sao mà người ta giao tiếp được với nhau qua máy điện thoại không nối mạng!). 

Trước chủ nhật 11/5/2014, một số người thường tham gia biểu tình chống Trung quốc năm 2011 cho biết công an tới nhà khuyến khích họ tham gia biểu tình chống Trung Quốc vào ngày 11 tháng năm 2014. Sự kiện này đã làm một số người khựng lại, vì họ phân vân không biết ý đồ của nhà nước là gì, kết quả có một số đã nằm nhà không đi biểu tình ngày chủ nhật 11/5/2014. 
Người cộng sản nói láo quá lâu, láo cả hệ thống thành ra nếu có một lúc nào đó họ nói thật thì chưa chắc đã được người dân tin! 
Không biết đến bao giờ thì lời nói của ông Thiệu sẽ sai? Chắc không bao giờ, trừ khi cái đảng cộng sản chết tiệt này tiêu tùng! 

Di sản của ông Phạm Văn Đồng 

Ông Phạm Văn Đồng là Thủ tướng nước VNDCCH, là phe thắng trận, nhưng ông cũng để lại một di sản mà khi nhắc đến cũng làm chạm nọc người cộng sản. Đó là bức Công Hàm mà người Việt Nam chúng ta thường vẫn gọi tắt là Công Hàm Phạm Văn Đồng, do ông Phạm Văn Đồng trên danh nghĩa Thủ Tướng nước VNDCCH ký ngày 14 tháng 9 năm 1958, để ghi nhận và tán thành tuyên bố của Nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa về Lãnh Hải do Chu Ân Lai ký ngày 4/9/1958. 
Chu Ân Lai ký bản Tuyên bố về Lãnh Hải của Trung Quốc, mà trong đó họ nhận vơ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của họ. Vậy mà chỉ trong vòng mười ngày sau ông Phạm Văn Đồng đã ký ngay công hàm ghi nhận và tán thành Tuyên Bố của họ Chu. Lối ngoại giao gì lạ vậy? ngoại giao chư hầu với thiên triều ư? Sau này chính ông Phạm Văn Đồng trong một cuộc phỏng vấn cho biết thời thế lúc đó vì cần sự giúp đỡ của Trung cộng nên VNDCCH phải làm như vậy! 
Thì ra vì cần nuốt phần đất tự do còn lại của Việt Nam là Miền Nam nên nhà nước cộng sản miền Bắc làm bất cứ chuyện gì kể cả ký một công hàm bán nước cho ngoại bang! Ở đây không nói đến tính pháp lý của Công Hàm Phạm Văn Đồng mà chỉ viết đôi dòng viết tác hại của di sản này đối với Việt Nam. 

Tất nhiên, người cộng sản Việt Nam ngoài miệng họ đâu thừa nhận công hàm Phạm Văn Đồng là một văn bản bán nước. Họ nói công hàm Phạm Văn Đồng là công hàm hữu nghị. Họ nói công hàm Phạm Văn Đồng đâu có nói gì đến Hoàng Sa và Trường Sa. Đúng là nói mị dân, tự mình tự biện bạch, lý sự cùn với mình chứ ra mà cải với Trung Cộng chắc không yên đâu. Đài phát thanh của Trung Cộng chương trình tiếng Việt đang đưa Công Hàm Phạm Văn Đồng ra để biện hộ cho hành động xâm lăng của họ đấy, đề nghị chuyên gia của CSVN nào giỏi viết bài phản bác đi! Tổng thống Ukraine bị lật đổ Yanukovych chạy sang Nga. Ông ta ký tên trong một lá thư (được đánh máy vi tính) yêu cầu Nga can thiệp giúp ông ta. Tại Liên Hiệp Quốc, Đại sứ Nga đã dùng lá thư này để biện minh cho tính chính đáng của Nga khi can thiệp quân sự vào vùng Crimea thuộc Ukraine. Nên nhớ rằng lá thư của Yanukovych không có đóng con dấu đỏ đâu nhé. Lẻ phải nằm trên nòng súng của kẻ mạnh và lá thư của Yanukovych hoặc Công Hàm Phạm Văn Đồng vô tình đã củng cố cho cái lý của kẻ cướp. Trong những ngày sau này, nghe nói Yanukovych tỏ vẻ hối hận vì đã chạy sang Nga và nhờ Nga giúp đỡ. 

Có người nói, Hoàng Sa và Trường Sa lúc đó nằm ở nam vĩ tuyến 17, thuộc VNCH kiểm soát. Ông Phạm Văn Đồng không thể bán cái gì mà mình không có (?). Cái oái oăm ở đây là ông Đồng đã bán được cái mình không có và cũng có người mua là Trung Cộng. Quả thực kẻ cắp gặp bà già. Thật là đen đủi cho đất nước Việt Nam, cộng sản thắng cuộc chiến. Ông Phạm văn Đồng giờ đã có những cái gì mà ngày trước mình đã bán cho Trung Cộng. Vậy thì phải tính làm sao đây, thưa quý vị? 
Hãy nhìn Phi Luật Tân, họ đâu bị vướng vào một văn bản chết tiệt nào như công hàm Phạm Văn Đồng vậy mà họ vẫn bị Trung Cộng gây khó khăn trong tranh chấp ở Biển Đông, bởi vì Trung Cộng quá mạnh. Tuy nhiên chính quyền Phi Luật Tân, họ đặt quyền lợi tổ quốc trên hết. Họ mạnh dạn đấu tranh chống Trung Cộng. Họ dám kiện Trung Cộng ra tòa quốc tế, đồng thời tranh thủ sự giúp đỡ của Mỹ để kiềm chế sự bành trướng của Trung Cộng. 
Ngược lại trong tranh chấp với Trung Cộng, nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam lúc nào cũng nhũn ra như sứa. Thật xấu hổ khi nghe báo chí lề đảng không dám gọi thẳng tên thủ phạm mà gọi trại là tàu lạ, nước lạ, người lạ, rồi nào là bốn tốt, mười sáu chữ vàng. Thật muốn ói! Chẳng lẻ công hàm Phạm Văn Đồng thật sự là cái cùm khóa miệng, khóa chân tay nhà nước và đảng Cộng Sản Việt Nam? Hay còn lý do gì khác nữa? Ví dụ như mật nghị Thành Đô chẳng hạn! 
Ông Phạm Văn Đồng hiện đã mồ yên mả đẹp ở nghĩa trang Mai Dịch. Tại Quảng Ngãi, quê nhà của tác giả Công Hàm Phạm Văn Đồng, nhà nước cộng sản xây cho ông một nhà lưu niệm rất đẹp. Thiết nghĩ họ nên trưng bày ở trong đó nơi trang trọng nhất nên đặt trong lồng kính bức công hàm ngày 14/9/1958 của ông bên cạnh đó là bảng tuyên bố về lãnh hải của Chu Ân Lai, để cho hậu thế phán xét.
Việt Nam ta có câu: Cọp chết để da người ta chết để tiếng. 


==========================================


[NguoiTyNan] chuyển nhiều bài viết chọn lọc với những quan điểm khác nhau cùng những đề tài: yêu nước, chống ngoại xâm, xây dựng dân chủ, tự do, bảo tồn di tích tỵ nạn, sức khoẻ, ... để cùng chia xẻ và tham khảo. Các bài viết này thể hiện quan điểm riêng của người viết và không thể hiện quan điểm, đường lối của [NguoiTyNan]. Xin vui lòng bỏ những bài thuộc chủ đề quý đọc giả không quan tâm. Dù chúng tôi có cố gắng nhiều nhưng chắc không thể đáp ứng mọi dị biệt, xin vui lòng bỏ qua những sơ suất. Muốn nhận tin bài của chúng tôi xin vui lòng vào 


http://groups.yahoo.com/group/nguoitynan/join.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét