N. S. Khrushốp
Về tệ sùng bái cá nhân và
những hậu quả của nó
Báo cáo mật tại phiên họp
kín ngày 25-2-1956
của Đại hội lần thứ XX đảng
cộng sản (bônsêvích) Liên Xô
-----------------------------------------------
8. Stalin và cuộc chiến tranh
Việc quyền lực bị thâu tóm trong tay một
người duy nhất - Stalin - đã tạo nên những hậu quả năng nề trong thời kỳ chiến
tranh vệ quốc vĩ đại.
Khi xem các tiểu thuyết, phim ảnh và
những công trình "khoa học" về lịch sử của chúng ta, ta thấy Stalin
có vai trò hầu như không thể tưởng tượng nổi trong cuộc chiến tranh vệ quốc.
Theo đó, Stalin đã tiên đoán tất cả. Quân đội Liên Xô theo kế hoạch chiến lược
do Stalin định sẵn từ lâu, đã sử dụng chiến thuật "phòng ngự tác
chiến" (nghĩa là chiến thuật cho phép lính Đức tràn vào tận Moskva và
Stalingrát). A p dụng chiến thuật này, hình như chỉ nhờ thiên tài của Stalin,
quân đội Liên Xô đã chuyển thế thủ thành thế công và đánh bại quân thù. Chiến
thắng mang tầm quan trọng lịch sử do các lực lượng vũ trang xô-viết và do nhân
dân Liên Xô anh dũng đạt được, đã bị coi là kết quả thiên tài quân sự của
Stalin(1) trong những thứ sách vở, phim
ảnh và các "công trình khoa học" như thế.
Chúng ta cần phân tích kỹ vấn đề này vì
nó có tầm quan trọng vô cùng lớn lao, chẳng những về phương diện lịch sử, mà cả
về góc độ đào tạo chính trị và thực tiễn.
Về điểm này sự thật ra sao?
Trước chiến tranh, báo chí trong nước và
tất cả công tác đào tạo chính trị đều hướng theo một giọng ngạo mạn: nếu kẻ thù
dám xâm phạm lãnh thổ thiêng liêng của Liên Xô, khi chúng đánh ta một đòn, ta
sẽ trả lại gấp ba và sẽ cho chúng đại bại ngay trên lãnh thổ của chúng, ta sẽ
chiến thắng mà không tổn hại gì mấy. Nhưng những lời tuyên bố ấy không dựa trên
sự thật nào, khả dĩ có thể đảm bảo sự bất khả xâm phạm của biên cương chúng ta
trong thực tế.
Trong và sau cuộc chiến tranh, Stalin đã
đưa ra ý kiến cho rằng thảm trạng mà nhân dân ta phải trải qua trong giai đoạn
đầu của cuộc chiến tranh là hậu quả cuộc tấn công "bất thình lình"
của quân đội Đức chống Liên Xô. Nhưng thưa các đồng chí, điều này hoàn toàn
không đúng sự thật. Ngay khi Hítle nắm quyền chính ở Đức, y đã tự đặt cho mình
sứ mệnh thủ tiêu chủ nghĩa cộng sản. Bọn phát-xít đã tuyên bố một cách thẳng
thừng về điều đó, không hề giấu giếm những ý đồ của chúng.
Để đạt được mục đích xâm lăng, chúng đã
thiết lập đủ các loại hiệp ước và khối trục. Thí dụ: "trục" Berlin -
Rôma - Tôkiô khét tiếng. Nhiều sự kiện xảy ra ở thời kỳ trước chiến tranh chứng
tỏ Hítle chuẩn bị ráo riết cuộc tấn công chống nhà nước xô-viết và y đã tập
trung những lực lượng quân sự lớn (trong đó có các quân đoàn thiết giáp) ở dọc
biên giới Liên Xô.
Nhiều tài liệu mới công bố hiện nay cho
thấy từ ngày 3-4-1941, Sớcsin - thông qua ông Cripps, đại sứ Anh ở Liên Xô - đã
nhắc Stalin việc nước Đức Quốc xã bắt đầu tổ chức lại quân lực nhằm mở cuộc tấn
công Liên Xô. Dĩ nhiên, Sớcsin hành động như thế không phải vì ông ta có thiện
cảm với nhân dân xô-viết. Những mục tiêu đế quốc của cá nhân Sớcsin đã dẫn dắt
ông trong việc này: xô đẩy nước Đức Quốc xã và Liên Xô vào cuộc chiến đẫm máu,
từ đó củng cố cho địa vị đế quốc Anh.
Tuy vậy, Sớcsin kể lại trong hồi ký của
mình là ông cố gắng "yêu cầu Stalin chú ý đến hiểm họa đang đe
dọa".(2) Sớcsin nhấn mạnh điểm này trong các điện tín gửi ngày 18-4 và
những ngày sau đó. Nhưng Stalin không hề để ý, thậm chí còn hạ lệnh cho mọi
người đừng tin vào những thông tin kiểu ấy để tránh "gây ra những cuộc
hành quân".
Chúng ta cần nhận định rằng những thông
tin về việc nước Đức đang chuẩn bị một cuộc tấn công vũ trang vào lãnh thổ Liên
Xô, cũng đã được các nguồn tin quân sự và ngoại giao của chúng ta đưa ra. Nhưng
như chúng ta thấy, ban lãnh đạo đã nhận được lệnh không được tin vào những tin
đó. Cho nên, với một nỗi lo âu nhất định, các tin này chỉ được gửi đi cùng
những nhận định rất dè dặt về tình thế lúc bấy giờ.
Chẳng hạn, trong báo cáo gửi từ Berlin
ngày 6-5-1941, tùy viên quân sự Liên Xô, đại úy Vôrônxốp viết:
Một công dân Liên Xô tên là Bôde đã báo
cho phó tùy viên phụ trách hải quân: như một sĩ quan Đức - làm việc ở Tổng Hành
dinh của Hítle - được biết, nước Đức chuẩn bị tấn công Liên Xô vào ngày 14-5 từ
hướng Phần Lan, các nước Bantơ và nước Lítva. Cùng một lúc, không quân Đức sẽ
tấn công ồ ạt Moskva và Lêningrát, và quân nhảy dù sẽ chiếm cứ các thành phố
dọc biên giới...
Trong báo cáo ngày 22-5-1941, phó tùy
viên quân sự ở Berlin, Khlôpốp thông báo:
Cuộc tấn công của quân đội Đức đã được
ấn định vào ngày 15-6, nhưng cũng có thể sẽ diễn ra trong những ngày đầu tháng
Sáu.
Bức điện tín từ tòa đại sứ của ta ở
Lônđơn gửi về ngày 18-6-1941, viết:
Cripps tin chắc rằng đụng độ vũ trang
giữa Đức và Liên Xô là không thể tránh khỏi, và cuộc chiến tranh này sẽ xảy ra
chậm nhất là vào khoảng giữa tháng Sáu. Theo Cripps, quân Đức hiện đang tập
trung 147 sư đoàn (kể cả không quân và các lực lượng trợ ứng) dọc biên giới
Liên Xô...
Phó mặc những lời nhắc nhở nghiêm trọng
như thế, không có một biện pháp thiết yếu nào được đưa ra để nước ta có thể
chuẩn bị một cách thích đáng công cuộc tự vệ và chống trả cuộc tấn công bất
ngờ.(3)
Chúng ta có đủ thì giờ và khả năng thực
hiện công cuộc chuẩn bị này không? Tất nhiên, có! Chúng ta có thì giờ và đủ khả
năng. Nền công nghiệp của chúng ta đã phát triển đến mức có thể cung cấp mọi
nhu cầu cho quân lực Liên Xô. Điều này được chứng minh bởi thực tế sau: trong
những năm đầu thời chiến tranh, mặc dầu chúng ta bị mất phân nửa nền công
nghiệp cùng những vùng công nghiệp và nông nghiệp quan trọng ở Ukraina và phía
Bắc Kápkadơ và những vùng miền Tây đất nước do sự chiếm đóng của quân thù, nhà
nước xô-viết vẫn tổ chức được việc sản xuất quân nhu ở các vùng nông thôn phía
Đông, vẫn đưa vào hoạt động những thiết bị được chuyển từ các khu công nghiệp
miền Tây và đã cung cấp cho quân đội mọi nhu cầu thiết yếu để tiêu diệt kẻ
địch.
Nếu nền công nghiệp chúng ta được vận
động kịp thời và đúng mức để cung cấp quân đội ta những khí cụ cần thiết thì
các tổn thất của ta trong thời chiến hẳn đã giảm bớt rất nhiều. Nhưng cuộc vận
động này không được thi hành đúng lúc. Ngay trong những ngày đầu chiến tranh,
rõ ràng là quân lực ta được vũ trang tồi tệ, không đủ đại bác, chiến xa và phi
cơ để đẩy lùi quân địch.
Ngay từ thời kỳ trước chiến tranh, nền
khoa học và kỹ thuật Liên Xô đã phát triển các loại chiến xa và đạc bác tuyệt
diệu. Có điều việc sản xuất hàng loạt những loại vũ khí này đã không được tổ
chức kịp thời và trong thực tế, ta chỉ bắt đầu hiện đại hóa vũ khí trước ngày
chiến tranh bùng nổ mà thôi. Thành thử, khi quân thù tấn công lãnh thổ xô-viết,
chúng ta chẳng có những thiết bị cũ - không còn được sử dụng trong công nghiệp
quân sự -, và cũng chưa có những thiết bị mới, khi ấy mới bắt đầu được chế tạo
trong các xưởng khí cụ. Đặc biệt, pháo binh của ta rất yếu; ta cũng chưa tổ
chức sản xuất đạn dược chống xe bọc thép. Nhiều vùng chiến lược được phòng thủ
kiên cố, nhưng rút cục không đương đầu nổi sức tấn công của quân thù vì những
loại vũ khí cũ đã bị loại bỏ, nhưng vũ khí loại mới chưa được sản xuất.
Sự kiện này, đáng tiếc, không chỉ xảy ra
với chiến xa, pháo binh và phi cơ. Đầu cuộc chiến, ta còn không đủ cả súng
trường để cung cấp cho số binh lính mới được điều động. Tôi còn nhớ trong những
ngày đó, tôi đã gọi điện thoại từ Kiép cho đồng chí Malenkốp(4)và nói:
"Nhiều chiến sĩ tình nguyện xin nhập ngũ và họ đòi cấp súng đạn. Yêu cầu
gửi vũ khí cho chúng tôi."
Đồng chí Malenkốp trả lời: "Chúng
tôi không thể gửi vũ khí cho đồng chí được. Chúng tôi đã gửi tất cả súng trường
cho Lêningrát. Các đồng chí phải tự vũ trang lấy." (Cả phòng họp xôn xao)
Tình trạng về vũ khí là như thế.
Liên quan đến vấn đề này, chúng ta không
nên quên sự kiện sau đây. I t lâu trước khi quân Hítle mở cuộc tấn công chống
Liên Xô, đồng chí Kóocpônốp - thời ấy là Tư lệnh Quân sự Đặc biệt Quân khu Kiép
(sau này hy sinh ở trận tuyến) - báo cáo cho Stalin biết quân Đức đang dừng
chân ở bờ sông Bugơ và đang chuẩn bị lực lượng, chắc chắn chúng sẽ mở cuộc tấn
công trong những ngày gần tới. Do đó, đồng chí đề nghị phải thiết lập một hệ
thống phòng thủ lớn, di tản khoảng 800 ngàn dân sự khỏi các vùng giáp biên giới
và xây dựng hàng loạt những đầu mối phòng ngự bằng cách thiết lập những công sự
chống chiến xa, những chiến hào, v. v...
Moskva trả lời rằng những biện pháp như
thế là một hành động khiêu khích, không nên khởi sự bất kỳ hành động phòng thủ
gì dọc biên giới để quân Đức mượn cớ mở cuộc hành quân chống lại ta. Do đó, các
vùng biên giới của ta không được chuẩn bị đầy đủ để đẩy lùi cuộc tấn công của
quân địch
Khi quân đội phát-xít thực sự xâm lấn
lãnh thổ xô-viết và những cuộc hành quân của chúng đã khởi đầu, Moskva vẫn ra
lệnh không được bắn trả những cuộc pháo kích của quân đội Đức. Thử hỏi tại sao?
Vì Stalin, mặc dầu sự việc đã rành rành, vẫn cứ tưởng chiến tranh chưa xảy ra,
tất cả những điều này chỉ là hành động khiêu khích của vài đơn vị binh lính vô
kỷ luật trong quân đội Đức, đòn giáng trả của chúng ta sẽ là cái cớ cho người
Đức làm bùng nổ cuộc chiến.
Sự thật sau đây cũng được nhiều người
biết đến. Ngay trước khi quân Đức xâm chiếm lãnh thổ Liên Xô, một công dân Đức
đã vượt biên giới và cho biết quân Đức được lệnh tấn công Liên Xô vào lúc 3 giờ
sáng ngày 22-6. Tin này được thông báo ngay cho Stalin nhưng Stalin vẫn hoàn
toàn bỏ qua.
Chúng ta có thể thấy Stalin đã khinh
thường những lời nhắc nhở của một số lãnh đạo quân sự, những thông báo của lính
Đức đào ngũ và ngay cả những hành động thù địch lộ liễu. Thử hỏi đó có phải là
tinh thần cảnh giác gương mẫu của một lãnh tụ đảng và nhà nước trong một khoảng
khắc lịch sử nghiêm trọng như thế?
Thái độ thản nhiên, khinh thường những
sự kiện rành rành ấy đã đem lại hậu quả ra sao? Kết quả là ngay trong những ngày
giờ đầu cuộc chiến, ở các vùng biên giới, kẻ thù đã phá hủy phần lớn không
quân, pháo binh và các trang bị quân sự khác của chúng ta. Chúng đã sát hại một
phần đáng kể các cán bộ quân sự và phá hoại Bộ Tham mưu Quân sự của ta. Tất cả
những điều này dẫn đến hậu quả là chúng ta không ngăn nổi quân thù tiến sâu vào
nội địa đất nước(5).
Những hậu quả rất đáng buồn, nhất là
trong giai đoạn đầu của cuộc chiến, xảy ra do việc Stalin - do bản tính đa nghi
và dựa trên những lời buộc tội bịa đặt - đã thủ tiêu nhiều người trong đội ngũ
cán bộ lãnh đạo quân sự và chính trị vào thời kỳ 1937-1941. Trong những năm đó,
các cuộc đàn áp đã triệt hạ những tầng lớp cán bộ quân sự nhất định: hầu như từ
đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng đến những lãnh đạo quân sự cấp cao nhất. Trong
thời kỳ đó, các nhà lãnh đạo quân đội - từng kinh qua chiến trận ở Tây Ban Nha
và Viễn Đông - đã bị thủ tiêu gần hết.(6)
Những cuộc khủng bố trên diện rộng lớn
đối với các cán bộ quân sự đã phá hủy kỷ luật quân sự, vì trong mấy năm liền,
người ta đã gợi ý sĩ quan các cấp, thậm chí cả binh lính trong đảng và trong
đoàn Thanh niên cộng sản (Komsomol), phải "vạch mặt" chỉ huy của họ
như kẻ thù giấu mặt. (Phòng họp náo động).
Tất nhiên, chính sách này đã làm tan vỡ
kỷ luật quân đội trong giai đoạn đầu của chiến tranh.
Và, cũng như các đồng chí đã biết, trước
chiến tranh chúng ta có nhiều cán bộ quân sự lỗi lạc, họ là những người trung
thành tận tụy với đảng và với Tổ quốc. Chỉ cần nói: những người sống sót qua
những vụ tra tấn tàn bạo trong ngục tù đã tỏ ra là những người yêu nước chân
chính và đã anh dũng chiến đấu cho vinh quang của tổ quốc, từ những ngày đầu
của chiến tranh. Tôi muốn nói đến đồng chí Rôkôsốpsky(7) (như các đồng chí
biết, đã bị giam cầm trong tù), đồng chí Gôrơbatốp, Marétskốp (là đại biểu ở
Đại hội này), đồng chí Pốtlát (một tư lệnh tuyệt vời đã bỏ mình nơi trận tuyến)
và nhiều, rất nhiều đồng chí khác. Tuy nhiên, nhiều tướng lĩnh chỉ huy đã bị
thiệt mạng trong các trại lao động khổ sai hoặc trong nhà tù, và quân đội ta
không bao giờ gặp lại họ nữa.
Tình trạng ấy đã diễn ra vào đầu cuộc
chiến và tạo nên mối hiểm họa lớn cho tổ quốc chúng ta.
Chúng ta không nên quên rằng sau những
thất bại và những tổn thất khốc hại đầu tiên ở chiến trường, Stalin đã mất lòng
tin và tưởng rằng nước ta đã lâm vào đường cùng.(8) Trong một bài diễn văn hồi
đó, Stalin tuyên bố: "Chúng ta đã đánh mất vĩnh viễn tất cả những gì Lênin
tạo ra".
Sau đó, trong một thời gian dài, trong
thực tế Stalin không điều khiển các cuộc hành quân, nói chung đồng chí ấy không
làm gì cả. Stalin chỉ nắm lại quyền chỉ huy quân sự sau khi một số ủy viên Bộ
Chính trị tới gặp đồng chí ấy yêu cầu thi hành cấp tốc một số biện pháp để cải
thiện tình hình ngoài trận tuyến. Như thế, mối nguy hiểm khôn lường đe dọa tổ
quốc chúng ta trong thời kỳ đầu chiến tranh, phần lớn bởi Stalin đã thực hiện
những phương pháp sai lầm trong việc lãnh đạo đảng và nhà nước.
Cố nhiên, chúng ta không thể chỉ nói đến
những hoàn cảnh khi cuộc chiến tranh mới nổ ra, đã phá hủy trầm trọng quân đội
và gây ra nhiều thiệt hại nặng nề cho chúng ta. Về sau này, sự mất bình tĩnh và
chuyện Stalin can thiệp loạn xạ vào công việc chỉ đạo quân sự cũng làm quân đội
ta bị thiệt hại nhiều.
Stalin hoàn toàn không hiểu những sự
kiện diễn ra ở trận tuyến. Và cũng không thể ngạc nhiên về điều này, nếu chúng
ta để ý là trong suốt thời kỳ chiến tranh vệ quốc, Stalin không hề đi kinh lý
một trận tuyến nào, hay một thành phố nào vừa được giải phóng, ngoại trừ một
cuộc thăm viếng đoạn đường ngắn trên quốc lộ Môgiaisk, khi tình thế đã ổn định
trên trận tuyến. Nhiều tác phẩm văn học đã đề cập kỹ lưỡng về chuyến đi này,
thêm thắt mọi thứ chuyện bịa đặt; đây cũng là đề tài cho lắm tác phẩm nghệ
thuật tạo hình.
Cùng lúc đó, Stalin can thiệp vào việc
thực hiện những cuộc hành quân, đưa ra các mệnh lệnh không căn cứ vào tình hình
thực tế của trận tuyến, đem lại rất nhiều tổn thất có thể tránh khỏi cho quân
đội ta.
Liên quan đến vấn đề này, tôi xin kể một
trường hợp điển hình, chứng tỏ Stalin đã điều khiển những cuộc hành quân ngoài
trận tuyến như thế nào. Tham dự Đại hội hôm nay có nguyên soái Bagramian(9),
chỉ huy các cuộc hành quân ở Tổng hành dinh mặt trận phía Tây Nam, và đồng chí
có thể chứng thực những điều tôi sẽ nói sau đây.
Năm 1942, khi tình hình trở nên đặc biệt
nghiêm trọng cho quân đội ta ở vùng Kháckốp, chúng tôi đã có quyết định đúng
đắn: ngừng cuộc hành quân nhằm bao vây Kháckốp, tình thế thực tế hồi đó cho
thấy tiếp tục chiến sự có thể gây tai hại thảm khốc cho quân đội ta. Chúng tôi
đề xuất ý kiến này với Stalin, lập luận rằng tình hình hiện tại đòi hỏi phải
xét lại kế hoạch hành quân, chớ để quân thù có khả năng phá hoại các cứ điểm
quân đội của ta.
Trái với lý trí thông thường, Stalin bác
bỏ đề nghị của chúng tôi và ra lệnh tiếp tục cuộc hành quân bao vây Kháckốp,
mặc dầu lúc đó nhiều nơi tập trung quân đội ta đang bị đe dọa bao vây và tiêu
diệt.
Tôi gọi điện thoại và đề nghị với đồng
chí Vassilépsky(10) như sau: "Alếchsanđrơ Mikhailôvích (đồng chí
Vassilépsky có mặt trong phòng họp này), đồng chí hãy cầm lấy bản đồ và chỉ cho
đồng chí Stalin biết thực trạng tình hình."
Tôi lưu ý là Stalin bày kế hoạch hành
binh trên bề mặt một quả địa cầu dùng cho học trò. (Phòng họp xôn xao)
Đúng như vậy các đồng chí ạ, Stalin kiếm
một quả địa cầu dùng cho học trò thông thường và theo dõi tình hình các mặt
trận trên đó. Tôi nói với đồng chí Vassilépsky: "Đồng chí hãy chỉ tình
hình cho đồng chí Stalin trên một chiếc bản đồ; trong điều kiện hiện nay chúng
ta không thể tiếp tục cuộc hành quân như dự định. Phải thay đổi quyết định cũ
cho hợp với thời cuộc."
Vassilépsky trả lời vấn đề này đã được
Stalin nghiên cứu và đồng chí không muốn thảo luận với Stalin nữa vì Stalin
không muốn bàn cãi thêm nữa.
Sau khi nói chuyện với Vassilépsky, tôi
gọi điện về nhà nghỉ Stalin. Nhưng Stalin không trả lời. Malenkốp đến nhấc điện
thoại. Tôi nói với đồng chí Malenkốp là tôi gọi điện từ mặt trận và muốn nói
chuyện trực tiếp với Stalin. Qua Malenkốp, Stalin bảo tôi hãy bàn bạc với với
đồng chí Malenkốp. Lần thứ hai, tôi nhấn mạnh là tôi muốn báo cáo trực tiếp với
Stalin về tình hình nguy cấp của chúng tôi ở mặt trận. Nhưng Stalin cho rằng
không cần cầm lấy ống nghe và một lần nữa, Stalin cho biết tôi phải nói chuyện
với đồng chí ấy thông qua Malenkốp, mặc dầu lúc đó Stalin chỉ đứng cách điện
thoại có vài bước.
Sau khi đã "lắng nghe" đề nghị
của tôi bằng cách ấy, Stalin trả lời: "Cứ để nguyên mọi thứ như cũ".
Và kết quả ra sao? Đúng như chúng tôi dự
tính. Quân Đức đã bao vây các khu tập trung quân đội ta và chúng ta đã bị thiệt
hại hàng trăm hàng ngàn quân lính. Thế đấy, một thí dụ về "thiên tài"
quân sự của Stalin và nó đã mang lại hậu quả cho chúng ta như thế nào! (Cả
phòng họp xôn xao)
Sau chiến tranh, một bận Stalin gặp gỡ
các ủy viên Bộ Chính trị, Anastasi Ivanôvích Mikôian(11) có nhắc đến chuyện
Khrushốp đã có lý khi đồng chí ấy gọi điện báo cáo về vấn đề hành quân vùng
Kháckốp, và thật đáng tiếc ý kiến của Khrushốp đã không được chấp thuận.
Các đồng chí hãy tưởng tượng Stalin nổi
khùng như thế nào! Làm sao có thể giả thiết là Stalin không có lý? Bởi Stalin
là một "thiên tài", mà một "thiên tài" luôn luôn phải có
lý! Bất kỳ ai đều có thể sai lầm, nhưng Stalin tự cho mình không bao giờ sai
lầm, đồng chí ấy luôn luôn có lý. Stalin không bao giờ nhận mình sai, sai lớn
hoặc sai nhỏ, mặc dầu đồng chí ấy đã mắc nhiều sai lầm cả trong những vấn đề lý
thuyết cũng như về mặt thực hành. Sau khi Đại hội bế mạc, chắc chắn chúng ta
cần khảo sát lại nhiều cuộc hành quân và trình bày nó dưới ánh sáng thích hợp.
Các sách lược dính líu đến Stalin, người
vốn không hề để tâm đến những điều căn bản của nghệ thuật lãnh đạo quân sự, đã
làm chúng ta hao tổn nhiều xương máu, cho đến lúc chúng ta ngăn chặn được quân
thù và chuyển sang phản công.
Các nhà quân sự đều biết ngay từ cuối
năm 1941, đáng lý phải đẩy mạnh cuộc tổng hành quân đánh chặn ngang quân địch
để tiến vào hậu tuyến của chúng, Stalin lại ra lệnh đánh trực diện để chiếm từ
vùng này sang vùng nọ. Chiến thuật này gây cho chúng ta nhiều tổn hại nặng nề,
cho đến khi các đại tướng của ta - hai vai mang mọi gánh nặng của chiến tranh -
đã biến đổi tình hình và chuyển sang những cuộc hành quân mềm dẻo hơn, mang lại
những thay đổi lớn tức thì, có lợi cho chúng ta.
Bởi vậy, thật là nhục nhã khi sau những
chiến thắng lớn, phải trả bằng giá rất đắt, Stalin lại đặt dấu hỏi về công
trạng của nhiều nhà chỉ huy quân sự, những người đã có công đánh bại quân thù;
đồng chí ấy không thể nào coi những công lao ở mặt trận lại lại có thể do người
khác làm nên.
Stalin rất muốn biết sự đánh giá của mọi
người về đồng chí Giukốp(12), nhà lãnh đạo quân sự của ta. Nhiều lần đồng chí
ấy hỏi ý kiến tôi về đồng chí Giukốp. Khi ấy tôi đáp: "Tôi biết Giukốp từ
lâu. Đồng chí là một vị tướng có tài năng và một lãnh đạo quân sự giỏi."
Sau chiến tranh, Stalin bắt đầu gieo rắc
nhiều tiếng xấu về Giukốp, chẳng hạn: "Đồng chí đã khen ngợi Giukốp, nhưng
đồng chí ấy có gì đáng được khen ngợi đâu. Người ta kể, trước mỗi cuộc hành
quân, đồng chí ấy vớ một nắm đất, đưa lên mũi ngửi rồi nói: "Chúng ta có
thể tấn công" hoặc ngược lại: "Chưa thể thực hiện kế hoạch dự
định!"
Hồi đó, tôi đã trả lời Stalin như sau:
"Thưa đồng chí Stalin, tôi không biết ai đã bịa đặt điều đó, nhưng không
phải là như thế."
Có thể chính Stalin đã bịa đặt ra những
chuyện kiểu ấy để hạ thấp vai trò và tài năng quân sự của nguyên soái Giukốp.
Cùng lúc đó, Stalin rất sốt sắng tự tỏ
ra mình là một tướng lĩnh giỏi; bằng những phương cách khác nhau, Stalin đã
gieo rắc trong đầu óc quần chúng ý nghĩ rằng mọi chiến thắng của đất nước Liên
Xô trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại đều do lòng quả cảm, sự can đảm và
thiên tài lỗi lạc của Stalin. Chẳng khác anh chàng Kryuchkốp(13) huyền thoại,
chém một nhát kiếm chết bảy kẻ địch. (Phòng họp xôn xao)
Cũng trong phạm vi vấn đề này, chúng ta
thử xem các phim ảnh lịch sử và quân sự và một vài tác phẩm văn học của chúng
ta. Thật là chán ngấy: mục đích thực sự của chúng là tụng ca thiên tài quân sự
của Stalin. Chúng ta hãy thử nhớ lại cuốn phim Berlin thất thủ(14). Trong đó,
Stalin là nhân vật duy nhất hành động; đồng chí ấy ra lệnh trong một gian phòng
có nhiều ghế bỏ trống, chỉ có một người đến gần Stalin và báo cáo gì đó. Người
đó là Pôskrêbưshép(15), kẻ hầu cận trung thành của Stalin. (Tiếng cười trong
phòng họp)
Còn ban chỉ đạo quân sự ở đâu? Bộ Chính
trị ở đâu? Chính phủ ở đâu? Họ làm gì và đang bận việc gì? Cuốn phim không đả
động tới. Stalin đã hành động thay tất cả mọi người, chẳng quan tâm đến ai,
chẳng hỏi ý kiến ai. Trong cuốn phim này, mọi việc đã bị bịa đặt trước mắt nhân
dân. Vì sao ư? Bởi, không thèm để tâm đến thực tế và sự thật lịch sử, người ta
muốn trình bày Stalin trong vầng hào quang.
Một câu hỏi được đặt ra: những người
lính vác trên hai vai mọi gánh nặng chiến tranh ở đâu? Họ hoàn toàn vắng mặt
trong cuốn phim; Stalin không chừa cho họ một chỗ đứng nào.
Trong cuộc chiến tranh cứu nước vĩ đại,
chiến thắng không phải là sản phẩm của Stalin, nó thuộc về toàn đảng, toàn
chính phủ Liên Xô, thuộc về quân đội anh hùng, những tướng lĩnh tài ba và những
người lính quả cảm, thuộc về toàn thể nhân dân Liên Xô. (Vỗ tay kéo dài)
Các ủy viên Ban chấp hành trung ương,
các Dân ủy, các nhà lãnh đạo kinh tế, các đại diện xuất sắc của nền văn hóa
xô-viết, những người đứng đầu tổ chức đảng và xô-viết địa phương, các kỹ sư và
các chuyên viên - mỗi người trên cương vị của mình, đã mang hết sức lực và khả
năng của mình để làm nên chiến thắng.
Hạt nhân của xã hội chúng ta đã tỏ ra
anh dũng khác thường: giai cấp công nhân vinh quang, nông dân tập thể, giới trí
thức Liên Xô - dưới sự lãnh đạo các tổ chức của đảng - đã vượt qua những khó
khăn khôn lường của thời chiến và đã mang hết sức bình sinh bảo vệ tổ quốc.
Những phụ nữ xô-viết - nhận về mình gánh
nặng của công tác sản xuất trong các nhà máy, các nông trang và các ngành kinh
tế và văn hóa - cũng đã làm nên những chiến công hiển hách và vẻ vang. Nhiều
phụ nữ đã tham gia trực tiếp vào cuộc chiến đấu ở tiền tuyến. Giới thanh niên
chúng ta cũng đóng góp vô biên ngoài mặt trận cũng như ở hậu phương, trong công
cuộc bảo vệ đất nước xô-viết và dẹp tan quân thù.
Những người lính xô-viết, những tướng
lãnh và các chiến sĩ chính trị ở mọi cấp đã có những công lao bất diệt. Sau các
thiệt hại đáng kể của quân đội ta trong những tháng đầu của cuộc chiến, họ vẫn
bình tĩnh chỉnh đốn hàng ngũ trong quá trình chiến đấu, họ đã tạo ra và củng cố
trong thời chiến một đạo quân hùng mạnh và chiến đấu anh dũng, chẳng những đã
đẩy lùi kẻ thù hùng mạnh và xảo quyệt mà còn đập tan bọn chúng.
Những chiến tích tuyệt vời của hàng trăm
triệu dân chúng ở miền Đông và miền Tây trong cuộc đấu tranh chống họa nô lệ
phát-xít sẽ còn sống mãi trong ký ức của nhân loại biết ơn, hàng thế kỷ, hàng
thiên niên kỷ sau này. (Vỗ tay kéo dài)
Vai trò và công trạng chính của chiến
thắng vĩ đại này thuộc về đảng cộng sản ta, thuộc về các lực lượng vũ trang
xô-viết, thuộc về hàng chục triệu nhân dân Liên Xô do đảng đào tạo.
Chú
thích:
1- Sau Thế chiến thứ hai, tất cả những
văn kiện của đảng cộng sản Liên Xô (và các đảng cộng sản khác trên thế giới)
đều đề cao "thiên tài quân sự lỗi lạc" của Stalin và coi Stalin là
người độc nhất đã sáng lập ra Hồng quân xô-viết trong cuộc cách mạng tháng Mười
năm 1917. (Sự thật, người sáng lập Hồng quân là Lép Trốtsky)
Nguyên soái Bunganin viết trong cuốn
sách Stalin và lực lượng vũ trang xô-viết:
Stalin là người sáng lập quân đội Liên
Xô và đồng chí là một nhà quân sự đại tài của thời đại này. Tất cả những cuộc
hành quân trong cuộc chiến tranh vệ quốc đều do đồng chí Stalin định đoạt và
đều được thực hiện dưới sự chỉ huy của đồng chí.
Malenkốp viết trong tờ Prápđa số ra ngày
21-12-1949:
Trong cuộc Đại chiến thế giới thứ hai,
khi quân đội phát-xít tràn ngập và bao trùm các nước trong vòng đen tối, đe dọa
nền văn minh nhân loại, đồng chí Stalin, đứng đầu Liên Xô, đã đứng ra chỉ huy
sự nghiệp dẹp tan bọn Hítle hung hãn. Đồng chí đã đem lại thắng lợi cho các dân
tộc yêu chuộng hòa bình. Đồng chí là một đại tướng tài giỏi, đã cứu thoát nhân
loại khỏi gông cùm phát-xít.
Những tuyên truyền bịa đặt khổng lồ này,
chẳng những gây ấn tượng trong đầu óc những người cộng sản mà còn gieo rắc ảnh
hưởng ngay trong giới trí thức thật tâm và nhiều sử gia đứng đắn trên thế giới.
Ai ai cũng tin Stalin là một "nhà quân sự đại tài". Riêng có Lép
Trốtsky đã vạch rõ sự thật trong những cuốn Stalin hay Đời tôi.
2- Nội dung bức thư của Sớcsin như sau:
Tôi nhận được tin chắc chắn quân đội Đức
sẽ xâm chiếm Nam Tư sau ngày 20-3 và sau đó, họ vận dụng ba trong năm sư đoàn
chiến xa từ Roumanie tiến qua miền Nam Ba Lan. Khi được tin cuộc cách mạng Nam
Tư bùng nổ, họ tạm hoãn và cho lùi thời điểm nói trên. Tôi mong ngải sẽ nhận
thức rõ ý nghĩa của sự kiện này.
3- Stalin tin ở Hiệp ước không xâm phạm
lẫn nhau đã ký năm 1939 với Hítle. Vì vậy, Stalin đã chia Ba Lan với Hítle và
để Hítle rảnh tay về phương Tây. Dân ủy Ngoại giao Liên Xô Môlôtốp từng công
khai chào mừng những chiến thắng của Hítle ở Pháp. Dựa vào Hiệp ước kể trên,
Stalin đem quân tràn vào Phần Lan, chiếm cứ ba nước Bantơ và chiếm miền
Bétsarabi của Rumani. Ông ta không ngờ nước Đức lại trở mặt và cũng không tính
chuyện có thể hợp tác với các nước phương Tây để chống lại Hítle. (Xin xem cuốn
Chủ nghĩa Stalin của sử gia Liên Xô R. Métvêđép do Nhà xuất bản Le Seuil ở
Paris dịch và phát hành năm 1972)
4- G.M. Malenkốp (1902-1988): bí thư Ban
chấp hành Trung ương năm 1937, chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô thời kỳ
1953-1955, ủy viên Bộ Chính trị đến năm 1957, cộng sự thân tín của Stalin.
5- Khrushốp cải chính huyền thoại cho
rằng Stalin đã dùng chiến thuật chống Napôlêông của nguyên soái Kutudốp thời
trước: nhử quân thù tiến sâu vào nội địa rồi để chúng bị sa lầy trên trận địa.
Sự thật, vì Liên Xô không chuẩn bị mà quân đội Đức đã tiến sâu vào lãnh thổ
xô-viết một cách dễ dàng, gây nhiều tổn thất (không cần thiết và lẽ ra có thể
tránh khỏi) cho nhân dân và Hồng quân.
6- Khrushốp công nhận những cuộc khủng
bố xta-lin-nít không đem lại sự củng cố chế độ như nhiều người lầm tưởng. Sự
thật, nó đã dẫn tới kết quả tệ hại là gây hoang mang và làm mất lòng tin trong
quân đội. Nhưng Khrushốp không nói hết tên những sĩ quan cao cấp đã bị triệt
hạ: các nguyên soái Tukhachépsky, Bliukhe, Êgôrốp; các đại tướng Ansơnít,
Biêlốp, Kachirin, Korơkơ, Ubôrêvích, Âydêman, Phenman, Primakốp, Pútna; các
thủy sư đô đốc Ôrơlốp, Víchtôrốp, Sípkốp, v.v... Trong năm 1938, những cuộc
thanh trừng đã thủ tiêu tất cả 80 thành viên Hội đồng Quân sự (thành lập năm
1934) và nhiều tướng tá khác. Người ta ước tính có tới 30.000 thượng và hạ sĩ
quan bị xử bắn.
7- Nguyên soái Kônstantin K. Rôkôsốpsky
bị bắt năm 1937 ở Lêningrát, bị tra tấn và cầm tù tới năm 1941 mới được thả.
Năm 1956 được cử làm bộ trưởng Bộ Quốc phòng ở Ba Lan. Trong giai đoạn
"tẩy trừ", nhiều đại tướng khác như Alếchsanđrơ V. Góocbatốp nhiều
nguyên soái khác như Cyrin A. Mêrétskốp cũng ở trường hợp như Rôkôsốpsky.
8- Khrushốp cải chính huyền thoại cho
rằng Stalin cũng quyết tâm đấu tranh đến cùng và do đó, đã củng cố được tinh
thần quân đội và nhân dân. Huyền thoại này cũng đã được chính con gái Stalin
cải chính. Sau này, để không ai biết đến việc mình mất lòng tin, Stalin đã tìm
cách thủ tiêu tất cả những nhân chứng từng chứng kiến sự thật ngày đó.
9- Ivan K. Bagramian: đảng viên từ năm
1938, nguyên soái Hồng quân năm 1955, thứ trưởng Bộ Quốc phòng năm 1956.
10- Alếchsanđrơ Vassilépsky: đảng viên
từ năm 1938, nguyên soái Hồng quân năm 1943, ủy viên Ban chấp hành Trung ương
năm 1952.
11- Anastasi I. Mikôian (1895-1978):
nhập đảng năm 1915, thành viên Ban chấp hành Trung ương từ năm 1923, ủy viên Bộ
Chính trị thời kỳ 1935-1966, phó chủ tịch thứ nhất Hội đồng Bộ trưởng từ năm
1955, chủ tịch nước thời kỳ 1964-1965. Bạn thân của Khrushốp.
12- Ghêorghi Giukốp (1896-1974): nguyên
soái Hồng quân năm 1943, thứ trưởng Bộ Quốc phòng năm 1955, ủy viên Bộ Chính
trị tháng 6-1957. Bị truất bỏ hết mọi chức vụ tháng 10-1957.
13- Kudơma Ktiútchkốp: kỵ binh ở vùng
sông Đông, tham gia du kích chống Đức trong Thế chiến thứ nhất (1914). Được báo
chí đề cao như một vị anh hùng cứu nước. Sau này, tên tuổi Ktiútchkốp tượng
trưng cho chủ nghĩa sô-vanh.
14- Bộ phim Berlin thất thủ của đạo diễn
Mikhain Chiaureli, quay năm 1949. Nguyên soái Giukốp - người lãnh đạo Hồng quân
chinh phục Berlin - chỉ xuất hiện vài phút để nhận mệnh lệnh của Stalin. Sau Đại
hội lần thứ XX, cuốn phim này bị thu hồi.
15- Alếchsanđrơ N. Pốtskrêbưshép: đảng
viên từ năm 1917, ủy viên Ban chấp hành Trung ương, bí thư đặc biệt của Stalin.
9. Diệt chủng và khủng bố
Thưa các đồng chí,
Bây giờ tôi xin được đề cập đến vài sự
việc khác. Liên bang xô-viết đã được đánh giá là tấm gương một quốc gia gồm
nhiều dân tộc vì trong thực tế, chúng ta đã đảm bảo quyền bình đẳng và tình
đoàn kết giữa tất cả các dân tộc sống chung trên tổ quốc rộng lớn của chúng ta.
Như thế, ta càng thấy những hành động do
Stalin đề xướng - đã vi phạm trắng trợn những nguyên tắc lê-nin-nít căn bản về
chính sách cùng chung sống giữa các dân tộc của nhà nước Liên Xô - mới kinh
khủng biết nhường nào! Chúng tôi muốn nói đến việc đày ải hàng loạt các dân tộc
khỏi mảnh đất quê hương của họ, trong số đó có cả những người cộng sản, những
đoàn viên Komsomol, không loại trừ một ai; không một quan điểm quân sự nào có
thể biện minh cho sự đày ải đó.
Chẳng hạn, cuối năm 1943, khi những cuộc
tấn công liên tục trên các trận tuyến của cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại đã
quyết định kết thúc cuộc chiến, một nghị quyết được đưa ra nhằm đày ải dân tộc
Karachai(1 )khỏi những mảnh đất họ đang cư trú. Quyết định này đã được thực
hiện.
Cũng vào thời kỳ đó, khoảng cuối tháng
12-1943, tất cả dân chúng nước Cộng hòa Tự trị Kanmức(2) cũng chịu chung một số
phận. Tháng 3-1944, tất cả dân tộc Chêchen và Ingushơ(3) bị xua đuổi, còn nước
Cộng hòa Tự trị Chêchen-Ingushơ bị giải tán.
Tháng 4-1944, tất cả dân Bankarơ bị đuổi
khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa Tự trị Kabácđô-Bankarơ đến các vùng khác, bản thân
nước cộng hòa này bị đổi tên thành Cộng hòa Tự trị Kabácđô.
Dân tộc Ukraina chỉ thoát được số phận
trên bởi họ quá đông và không biết đưa họ đi đâu. Nếu không thì họ cũng bị đày
ải rồi. (Tiếng cười và náo động trong phòng)
Không chỉ người mác-xít - lê-nin-nít mà
ai ai có chút suy nghĩ cũng không hiểu nổi tại sao có thể buộc tội phản bội cho
cả một dân tộc, kể cả phụ nữ, trẻ nhỏ, người già, người cộng sản, đoàn viên
Komsomol, v.v...; làm sao có thể áp dụng các biện pháp khủng bố trả đũa đối với
cả một dân tộc - khiến họ phải đau khổ và chịu đựng - vì những hành vi của một
số người hay một số tập đoàn chống lại ta(4).
Sau cuộc chiến tranh cứu quốc, đất nước
ta đã tự hào nhớ lại những chiến thắng vẻ vang, đạt được nhờ sự hy sinh vô bờ
bến và những cố gắng vĩ đại của toàn dân. Cả nước như sống trong một cơn sảng
khoái chính trị. Đảng ta sau chiến tranh lại càng gắn bó hơn trước. Trong lửa
đạn chiến tranh, đội ngũ cán bộ đảng đã được tôi luyện và vững mạnh. Trong
những điều kiện đó, không ai trong đảng có thể nghĩ tới khả năng một âm mưu gì.
Và chính trong thời kỳ này, cái gọi là
"vụ án Lêningrát" đã nảy ra. Ngày nay chúng ta đã chứng tỏ được đây
chỉ là một vụ ngụy tạo. Trong số các đồng chí bị sát hại hoàn toàn oan uổng, có
Vôdơnêsensky, Kudơnétsốp, Rôđiônốp, Pốpkốp(5) và nhiều người khác.
Như chúng ta đã biết, đồng chí
Vôdơnêsensky và Kudơnétsốp là những lãnh đạo tài ba và xuất sắc. Họ đã có lúc
rất gần gũi Stalin. Chỉ cần nhắc đến việc Stalin đã giao phó trọng trách Phó
chủ tịch thứ nhất Hội đồng Chính phủ cho đồng chí Vôdơnêsensky và đồng chí
Kudơnétsốp đã được bầu làm bí thư Ban chấp hành trung ương đảng. Ngay việc
Stalin ủy nhiệm Kudơnétsốp lãnh đạo các tổ chức an ninh nhà nước(6) cũng chứng
tỏ Kudơnétsốp được tin cẩn đến mức nào.
Làm sao có thể xảy ra chuyện những người
này bị tố cáo là "kẻ thù của nhân dân" và bị thủ tiêu? Những sự kiện
xảy ra đã chứng minh "vụ án Lêningrát" là một biểu hiện của sự độc
đoán sta-lin-nít đối với các cán bộ đảng.
Nếu hồi đó, trong Ban chấp hành trung
ương và Bộ Chính trị tình hình diễn ra bình thường thì những việc như thế đã
được bàn bạc theo cách làm thực tiễn của đảng và những sự việc liên quan đến nó
đã được cân nhắc. Như thế, vụ việc này - cũng như các vụ tương tự - đã không
thể nào xảy ra được.
Tôi cần phải nói rằng sau chiến tranh,
tình hình ngày càng phức tạp. Stalin ngày càng thất thường hơn, nóng nảy hơn và
hung hãn hơn; đặc biệt là tính đa nghi ngày càng tăng lên. Căn bệnh săn đuổi
cuồng bạo của đồng chí ấy đã đạt tới mức độ không thể tưởng tượng được. Trước
mắt Stalin, nhiều cộng sự đã trở thành kẻ thù. Sau chiến tranh, Stalin ngày
càng tách rời tập thể. Stalin một mình định đoạt mọi việc, không để ý đến một
ai hoặc một sự kiện nào cả.
Tính đa nghi không thể tưởng tượng nổi
này của Stalin được một tên khiêu khích hạ đẳng và đê tiện là Bêrya lạm dụng
một cách rất khôn khéo. Y đã sát hại hàng ngàn người cộng sản và thường dân
xô-viết trung thành. Sự thăng chức nhanh chóng của Vôdơnêsensky và Kudơnétsốp
khiến Bêrya lo ngại. Cũng như hiện nay, ta đã có bằng chứng Bêrya là người đã
"xung phong" phục vụ Stalin về việc y và các đồng sự đã bày đặt một
tài liệu dưới hình thức những lời tuyên bố, những thư nặc danh cùng mọi thứ đồn
đại và đơm đặt khác(7).
Ban chấp hành trung ương đảng đã xem xét
lại vụ án giả mạo mà người ta gọi là "vụ án Lêningrát"; những người
vô tội bị hành hạ đã được minh oan và danh dự vẻ vang của tổ chức đảng vùng
Lêningrát được phục hồi. Những kẻ bày đặt vụ án này như Abakumốp(8) và bè lũ bị
đưa ra tòa án; chúng bị xét xử ở Lêningrát và đã đền tội một cách đích đáng.
Có người đặt câu hỏi: tại sao đến giờ
chúng ta mới thấy rõ cốt lõi của vụ này, tại sao trước kia - lúc sanh thời
Stalin - chúng ta không làm gì để ngăn cản việc những người vô tội bị giết hại?
Bởi Stalin đã đích thân để tâm đến "vụ án Lêningrát" và đa số ủy viên
Bộ Chính trị hồi đó đã không biết mọi chi tiết của vụ này, vì vậy họ không thể
can thiệp.
Khi Stalin nhận được những tài liệu do
Bêrya và Abakumốp chuyển đến, đồng chí ấy không hề xem xét những lời vu khống
mà lập tức hạ lệnh chấm dứt mọi điều tra về "vụ việc" của
Vôdơnêsensky và Kudơnétsốp. Điều này định đoạt số phận của họ.
Trên phương diện này, vụ án tổ chức quốc
gia Mingrêlia - dường như hoạt động ở vùng Grudya - cũng rất có tính tiêu biểu.
Như chúng ta biết, những nghị quyết về vụ này đã được Ban chấp hành trung ương
đảng cộng sản Liên Xô thông qua hồi tháng 11-1951 và tháng 3-1952, nhưng không
hề được thảo luận trước ở Bộ Chính trị. Stalin đã đích thân đọc chúng cho người
ta viết, và những nghị quyết ấy đã kết án rất nặng nề nhiều người cộng sản
nhiệt huyết. Theo những tài liệu được đưa ra, người ta bảo rằng ở Grudya có một
tổ chức quốc gia đặt mục đích thủ tiêu chính quyền xô-viết với sự viện trợ của
các siêu cường đế quốc.
Dựa vào đó, hàng loạt cán bộ lãnh đạo
đảng và xô-viết đã bị bắt giam. Sau này, chúng ta có những bằng cớ chứng tỏ đây
chỉ là chuyện vu khống nhằm chống lại tổ chức đảng ở Grudya.
Chúng ta biết ở Grudya cũng như tại
nhiều vùng khác, thỉnh thoảng chủ nghĩa quốc gia tư sản mang tính địa phương
lại bùng lên. Một câu hỏi được đề ra: thử hỏi ở vào thời kỳ những nghị quyết
nói trên được thông qua, những xu hướng quốc gia có đến mức khiến việc Grudya
tách rời khỏi Liên bang Xô Viết và sát nhập với Thổ Nhĩ Kỳ trở thành một mối
họa thực sự hay không? (Tiếng ồn ào và tiếng cười trong phòng họp )
Dĩ nhiên, tất cả những điều ấy chỉ là
nhảm nhí. Hoàn toàn loại trừ khả năng có người nào đó nghĩ đến một chuyện như
thế. Ai cũng biết vùng Grudya đã phát triển như thế nào trên địa hạt kinh tế và
văn hóa dưới sự chế độ xô-viết. Sản lượng công nghiệp của Cộng hòa Grudya đã
tăng gấp 27 lần so với thời kỳ trước cách mạng. Nhiều ngành công nghiệp mới -
trước đây không có ở Grudya - đã xuất hiện: công nghiệp gang thép, công nghiệp
dầu lửa, chế tạo cơ khí, v.v... Nạn mù chữ, trước cách mạng chiếm tỷ lệ 78% dân
chúng Grudya, đã được thanh toán từ lâu.
Khó có thể tưởng tượng được dân Grudya
lại đi phấn đấu để sát nhập với Thổ Nhĩ Kỳ, trong khi so sánh hoàn cảnh của họ
với tình cảnh nặng nề của quần chúng lao động Thổ Nhĩ Kỳ. Năm 1955, tính theo
đầu người, Grudya sản xuất thép gấp 18 lần Thổ Nhĩ Kỳ. Về điện lực, Grudya sản
xuất gấp chín lần Thổ Nhĩ Kỳ, cũng tính theo đầu người. Theo kê khai dân số năm
1950, 65% dân số Thổ Nhĩ Kỳ mù chữ; tỉ lệ này lên đến 80% ở phụ nữ. Nước Grudya
có 19 trường đại học và cao đẳng với 39 ngàn sinh viên, nghĩa là nhiều gấp tám
lần Thổ Nhĩ Kỳ (tính theo một ngàn nhân khẩu). Đời sống sung túc của công nhân
nước Grudya được nâng cao chưa từng thấy dưới chế độ xô-viết.
Hiển nhiên là khi nền kinh tế và văn hóa
- cũng như nhận thức chủ nghĩa xã hội của quần chúng lao động - phát triển ở
nước Grudya, nguồn suối nuôi dưỡng động lực của chủ nghĩa quốc gia tư sản càng
bị cạn kiệt.
Những biến cố xảy ra sau đó chứng tỏ
không có một tổ chức quốc gia nào ở Grudya cả. Hàng ngàn người vô tội đã trở
thành nạn nhân của chính sách độc đoán và vô luật pháp. Và tất cả những điều
này đã xảy ra dưới sự lãnh đạo "thiên tài" của Stalin, "người
con vĩ đại của dân tộc Grudya", như dân chúng Grudya vẫn thích gọi Stalin
như thế. (Phòng họp náo động)
Chú
thích:
1- Người Karachai xuất xứ từ một dân tộc
thiểu số Thổ Nhĩ Kỳ ở miền Tây Kápkadơ, bị Nga chiếm vào thế kỷ 19. Dân tộc này
có chừng 75.000 người. Phần lớn đất đai của họ bị sát nhập vào nước Grudya.
2- Dân tộc Kanmức sống ở vùng thảo
nguyên phía Tây cửa sông Vônga, tiếng nói của họ thuộc hệ Mông Cổ.
3- Chêchen và Ingushơ là hai dân tộc
sống ở phía Bắc sườn núi Kápkadơ, có tiếng nói thuộc hệ ngôn ngữ Kápkadơ.
4- Người phụ trách việc đày ải các dân
tộc này là Bêrya. Sau khi chiếm được vùng Kápkadơ, phát-xít Đức hứa sẽ mang lại
nền độc lập cho người Chêchen,Ingushơ, Banka và Kanmức; vì vậy, một số người
thuộc các dân tộc này theo quân Đức. Dựa vào cớ đó, Stalin đã thực hiện những
vụ đày ải đại quy mô và đẫm máu đối với các dân tộc nói trên.
5- Nikôlai Vôdơnêsensky (1903-1950):
viện sĩ, ủy viên Ban chấp hành Trung ương năm 1939, chủ tịch U±y ban Kế hoạch
Nhà nước, ủy viên Bộ Chính trị năm 1947, phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
- Alếchxây Kudơnétxốp: bí thư thành ủy
Lêningrát năm 1945, bí thư Ban chấp hành Trung ương và ủy viên phụ trách Ban tổ
chức Trung ương năm 1946.
- Mikhain Rôđinốp: thủ tướng Cộng hòa
Liên Xô, ủy viên phụ trách Ban tổ chức Trung ương năm 1946.
- Piốt Pốpkốp: ủy viên Ban chấp hành
Trung ương năm 1939, bí thư thứ nhất thành ủy Lêningrát năm 1949.
6- Kudơnétxốp lãnh đạo hai cơ quan an
ninh: Bộ An ninh Quốc gia và Bộ Nội vụ.
7- Đổ cho Bêrya và Abakumốp mọi tội lỗi
trong "vụ án Lêningrát" là một quan điểm thường thấy ở Liên Xô ngày
xưa. Kỳ thực, Stalin chỉ đạo trực tiếp vụ này, vì ông ta lo ngại Vôdơnêsensky
và Kudơnétxốp, hai nhà lãnh đạotrẻ xuất sắc và có tầm nhìn độc lập sẽ có thể
trở nên một đe dọa cho quyền uy của mình.
8- Victor S. Abakumốp: bộ trưởng Bộ An
ninh Quốc gia thời kỳ 1947-1951, bị xử tử năm 1954.
10. Xung đột với Nam Tư.
Bản tính độc đoán của Stalin không những
đã bộc lộ trong các quyết định liên quan đến sinh hoạt nội bộ của đất nước, mà
còn cả trong những mối quan hệ quốc tế của Liên Xô.
Hội nghị toàn thể Ban chấp hành trung
ương hồi tháng Bảy đã xem xét cặn kẽ những lý do gây ra cuộc xung đột với Nam
Tư(1). Ơ đây, Stalin đã đóng một vai trò vô lý. Những vấn đề đặt ra trong
"vụ Nam Tư" đều có thể giải quyết bằng sự tranh luận mang tính đảng
giữa các đồng chí với nhau. Không có một nguyên cớ đáng kể nào khiến
"vụ" này phát triển: hoàn toàn có thể tránh sự đoạn tuyệt với Nam Tư
hồi đó. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là các lãnh tụ Nam Tư không phạm
phải sai lầm và thiếu sót. Nhưng những sai lầm và thiếu sót đó đã được Stalin
thổi phồng lên một cách ghê gớm, và việc này đã dẫn tới sự đoạn tuyệt với một
nước anh em.
Tôi còn nhớ những ngày đầu khi cuộc xung
đột giữa Liên Xô và Nam Tư bắt đầu được thổi phồng một cách giả tạo. Một bận từ
Kiép về Moskva, tôi được Stalin mời đến hội kiến. Cho tôi xem bản sao bức thư
gửi Titô mới nhận được, Stalin hỏi tôi: "Đồng chí đã đọc thư này chưa?"
Rồi không đợi tôi trả lời, đồng chí ấy nói: "Tôi chỉ cần vẩy ngón tay út
là Titô không còn nữa. Hắn sẽ đổ!"
Chúng ta đã trả một giá đắt cho việc
"vẩy ngón tay út" của Stalin. Lời tuyên bố này phản ảnh bệnh vĩ nhân
cuồng của Stalin, nhưng đồng chí ấy vẫn luôn làm như thế: "Tôi chỉ cần vẩy
ngón tay út là Kốtsiô sẽ biến mất"; "Tôi chỉ cần vẩy ngón tay út một
lần nữa - là Vôdơnêsensky, Kudơnétsốp và nhiều đứa khác sẽ tiêu".
Nhưng điều này đã không xảy ra với Titô.
Mặc dầu Stalin ra sức vẩy - chẳng những ngón út mà mọi thứ có thể lay chuyển
khác -, Titô vẫn không đổ. Vì sao? Bởi lẽ ở trường hợp xung đột xảy ra với các
đồng chí Nam Tư, sau lưng Titô có cả một nhà nước và một dân tộc đã trải qua
trường học gian khổ của cuộc chiến đấu cho tự do và độc lập, một dân tộc ủng hộ
những lãnh tụ của họ.(2)
Các đồng chí có thể thấy tính huyênh
hoang tự đại điên cuồng của Stalin đã đưa chúng ta đến đâu: đồng chí ấy đã mất
hẳn cảm giác thực tế. Stalin bộc lộ tính kiêu căng và đa nghi của mình không
những đối với một số cá nhân ở Liên Xô, mà còn đối với các đảng và các nhà nước
khác nữa.
Chúng tôi đã nghiên cứu kỹ càng trường
hợp Nam Tư và chúng tôi đã tìm được một giải pháp đúng đắn được các dân tộc
Liên Xô và Nam Tư ủng hộ, được quần chúng lao động các nước Dân chủ Nhân dân và
cả nhân loại tiến bộ chấp nhận. Việc xóa bỏ những mối quan hệ bất thường với
Nam Tư đã phục vụ các quyền lợi của phe xã hội chủ nghĩa và những lợi ích của
hòa bình thế giới.
Chú
thích:
1- Sau cuộc xung đột chính trị giữa Liên
Xô và Nam Tư, năm 1950, Nhóm trốt-kít Việt Nam ở Pháp - cơ quan điều khiển Hiệp
đoàn thợ Việt Nam ở Pháp - đã tổ chức một nhóm Việt kiều vùng Paris lấy tên
Đoàn tháng Mười (gồm hơn ba mươi người) qua Nam Tư "tìm sự thật". Sau
một tháng khảo sát ở Nam Tư, Đoàn tháng Mười tuyên bố một bản Quyết nghị phản
đối việc vu cáo Nam Tư là nước phát-xít, nhận định nước Nam Tư đồng tính chất
như Liên Xô, Trung Hoa và các nước dân chủ nhân dân khác.
Trong thời kỳ này, nhiều tờ báo Việt ngữ
ở Pháp như Công nhân (của Công nhân Tương trợ), Văn hóa Liên hiệp v.v... - dưới
ảnh hưởng của đảng cộng sản - đã tố cáo Nhóm trốt-kít Việt Nam ở Pháp theo
"phát-xít Titô". Họ tuyên truyền khẩu hiệu Hiệp đoàn trốt-kít
phát-xít Titô.
2- Sự đoạn tuyệt giữa Stalin và Titô
không phải là sự tuyệt giao giữa hai cá nhân. Nó có ý nghĩa lịch sử quan trọng
do sự mâu thuẫn nội bộ của phong trào xta-lin-nít trên thế giới. Vào thời ấy,
Nhóm trốt-kít Việt Nam tại Pháp đã xuất bản nhiều tài liệu nghiên cứu ý nghĩa
sâu xa của vụ xung đột này và tiên đoán sẽ có những cuộc xung đột khác giữa các
đảng cộng sản (và các nước do đảng cộng sản điều khiển). Khrushốp chỉ buộc tội
Stalin nhưng ông ta quên rằng hầu hết các đảng và các lãnh tụ cộng sản trên thế
giới đều đua nhau thóa mạ Titô và nước Nam Tư một cách vu cáo, hèn hạ. Thí dụ nguyên
soái quân đội Liên Xô Bunganin đã tuyên bố trong bài diễn văn ngày 9-9-1949:
Tên Giuđa Titô và bọn đồng lõa là những
tên phản bội đê hèn đã bỏ hàng ngũ các nước xã hội chủ nghĩa chạy qua hàng ngũ
các nước đế quốc và phát-xít. Chúng đã biến nước Nam Tư thành nhà ngục của bọn
Gestapo. Tất cả nhân loại tiến bộ nhìn bộ mặt hèn hạ và xấu xa của bọn đồng lõa
đế quốc đều không khỏi ghê tởm. Bọn chúng sẽ không tránh khỏi sự hỏi tội của
nhân dân nước này. Chúng sẽ bị xử án về những tội ác đẫm máu, về sự phản bội
của chúng đối với dân tộc Nam Tư và nhân dân các nước Mặt trận Dân chủ.
11. Khủng bố
Bây giờ, chúng ta hãy xét lại "vụ
các bác sĩ khủng bố". (Phòng họp náo động)
Thật ra, hoàn toàn không có
"vụ" gì ở đây, ngoài lời tố giác của nữ bác sĩ Timashuk, tức lá thư
bà ta viết cho Stalin - hẳn do ai đó xúi bẩy hoặc ra lệnh (tuy Timashuk chính
là cộng tác viên không chính thức của các cơ quan an ninh quốc gia) -, trong đó
bà ta viện đến những phương pháp không thể dung thứ (giả định) của các bác
sĩ(1).
Chỉ một bức thư như thế cũng đủ để
Stalin rút ra kết luận tức khắc: ở Liên Xô có những bác sĩ chủ trương khủng
bố... đồng chí ấy ra lệnh bắt giam một nhóm chuyên gia y tế có uy tín và đích
thân ra chỉ thị về cách thức điều tra cũng như phương pháp dùng trong quá trình
khảo cung những người bị bắt. Stalin nói rằng phải cùm Viện sĩ Hàn lâm
Vinôgrađốp(2) bằng xích sắt và đánh đập những người khác. Đồng chí Igơnatiép(3)
- cựu bộ trưởng Bộ An ninh Quốc gia - hôm nay tham dự Đại hội nghị này với tư
cách đại biểu. Stalin đã cao giọng với đồng chí: "Chúng tôi sẽ chặt đầu
anh nếu anh không lấy được lời nhận tội của bọn bác sĩ!" (Phòng họp xôn
xao).
Stalin đã đích thân gọi cán bộ điều tra vụ
này đến gặp mình để truyền lệnh và chỉ bảo phương pháp điều tra. Những phương
pháp ấy rất đơn giản: đánh, đánh và đánh thêm nữa.
I t lâu sau khi các bác sĩ bị bắt, chúng
tôi - những thành viên Bộ Chính trị - nhận được những biên bản chứa những lời
thú tội của các bác sĩ. Sau khi phát cho chúng tôi những biên bản đó, Stalin
nói: "Các anh mù như lũ mèo con chưa mở mắt. Nếu không có tôi thì sự việc
sẽ ra sao? Đất nước sẽ bị tiêu vong chỉ vì các anh không nhận biết được kẻ
thù."
Vụ này được bố trí để không ai có thể
kiểm tra những bằng chứng mà qua đó, quá trình điều tra đã được xây dựng. Chúng
tôi cũng không thể tìm cách kiểm tra những sự kiện bằng cách liên lạc với những
người đã thú nhận tội lỗi của họ.
Nhưng dầu sao chúng tôi cũng đã cảm thấy
vụ bắt bớ các bác sĩ thật đáng ngờ. Chúng tôi có quen biết cá nhân một số người
trong số đó vì thời trước họ đã chữa bệnh cho chúng tôi. Sau khi Stalin chết,
chúng tôi điều tra lại "vụ án" này, và rút ra kết luận: đây là một vụ
ngụy tạo từ đầu chí cuối.
Stalin đã bịa đặt ra "vụ án"
nhục nhã này. Nhưng Stalin không có đủ thì giờ để đi tới đích (như đồng chí ấy
hằng mong muốn), và do đó các bác sĩ mới còn sống sót. Hiện nay chúng tôi đã
minh oan cho tất cả các bác sĩ ấy; họ vẫn tiếp tục làm việc ở cơ quan cũ. Các
bác sĩ vẫn chữa bệnh cho những cán bộ cao cấp, kể cả những thành viên chính
phủ; được chúng tôi hoàn toàn tin tưởng, họ thực hiện bổn phận của mình một
cách lương thiện, cũng như họ đã làm trong quá khứ.(4)
Chú
thích:
1- Liđya Timashúk là một bác sĩ thuộc
điện Kremli. Lá thư của bà ta tố cáo các bác sĩ đã không tận tình chạy chữa cho
Giơđanốp. Sau này, Timashúk được thưởng Huân chương Lênin vì công trạng vu
khống các đồng sự của mình.
1- Giáo sư Vinôgrađốp chính là bác sĩ
điều trị riêng của Stalin.
1- Igơnatiép: bộ trưởng Bộ An ninh Quốc
gia (thế chân Abakumốp), ủy viên thường vụ Ban chấp hành Trung ương, bí thư Ban
chấp hành Trung ương năm 1953. Hai ngày sau khi vụ "bọn áo choàng
trắng" được rửa án, Igơnatiép bị hạ xuống chức bí thư Cộng hoà Tự trị Bashơkiri.
1- Thông qua vụ "bọn áo choàng
trắng", Stalin nhằm thủ tiêu một số người thân cận mình trong số các ủy
viên Bộ Chính trị và Ban chấp hành Trung ương. Phương pháp này cũng giống thủ
đoạn Stalin đã lợi dụng vụ "ám sát Kirốp" để thanh trừng các cựu đồng
chí của Lênin.
12. Bêrya
Bêrya(1), tay sai của các tổ chức gián
điệp ngoại bang, kẻ thù độc ác của đảng ta, đã đóng vai trò đê tiện nhất trong
việc tổ chức các vụ việc nhơ bẩn và nhục nhã này. Y đã chiếm được lòng tin cẩn
của Stalin. Tên khiêu khích ấy làm thế nào đoạt được địa vị trong đảng và nhà
nước, để rồi trở thành Phó chủ tịch thứ nhất Hội đồng Chính phủ Liên Xô và ủy
viên Bộ Chính trị Ban chấp hành trung ương đảng? Hiện nay chúng ta được biết là
tên đốn mạt này đã dẫm lên không biết bao nhiêu xác chết để leo ngày một cao
lên các bậc thang chính quyền.(2)
Có những bằng chứng nào cho ta thấy
Bêrya là kẻ thù của đảng? Có, có những bằng chứng như thế! Ngay từ năm 1937,
trong một hội nghị toàn thể của Ban chấp hành trung ương, đồng chí Kaminsky(3)
- cựu Dân ủy Bộ Y tế - tuyên bố Bêrya làm việc cho tổ chức gián điệp
Mussavát(4). Có điều, ngay khi cuộc họp Ban chấp hành trung ương vừa chấm dứt,
đồng chí Kaminsky đã bị bắt và xử bắn.
Stalin có xem xét lời tuyên bố của
Kaminsky không? Không, vì Stalin tin cậy Bêrya và đối với Stalin, thế là đủ. Và
khi Stalin tin một người hay một điều gì đó, không ai có thể đưa ra ý kiến khác
với đồng chí ấy, dù chỉ một câu : ai dám bày tỏ sự bất đồng, kẻ ấy cũng chịu
chung một số phận như đồng chí Kaminsky.
Ngoài ra, còn nhiều dấu hiệu khác nữa.
Đáng để ý đến lời báo cáo của đồng chí Snegốp(5) ở Ban chấp hành trung ương
đảng (nên nhắc lại là Snegốp đã được phục hồi trong thời gian gần đây, sau khi
bị tù 17 năm ở các trại lao động trừng giới). Trong lá đơn này, đồng chí Snegốp
viết như sau:
Về dự định phục hồi cho đồng chí
Cácvelichơvili-Lavrentiev(6), cựu ủy viên Ban chấp hành trung ương, tôi đã trao
cho đại diện U y ban An ninh Quốc gia một bản khai kỹ lưỡng về vai trò của
Bêrya trong quá trình quyết định vụ án Cácvelichơvili và những nguyên ủy tội
lỗi đã dẫn dắt Bêrya trong việc này.
Theo ý tôi, không thể để trôi vào quên
lãng một sự kiện quan trọng dính líu đến vụ này và cần thông báo cho Ban chấp
hành trung ương được biết, vì tôi thấy việc kèm tài liệu này với những hồ sơ
điều tra là không nên.
Ngày 30-10-1931, trong cuộc họp của U y
ban Tổ chức của Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản (bônsêvích) Liên Xô,
đồng chí Cácvelichơvili - bí thư U y ban Liên tỉnh miền Trans-Kápkadơ - đọc bản
tường trình. Tất cả thành viên Ban Chấp hành liên tỉnh đều có mặt hôm đó, trong
số đó chỉ mình tôi còn sống sót. Trong khóa họp này, sau khi chấm dứt bài diễn
văn, Stalin đề nghị tổ chức lại Ban Bí thư của U y ban Liên tỉnh miền
Trans-Kápkadơ như sau: bí thư thú nhất - Cácvelichơvili; bí thư thứ hai - Bêrya
(đây là lần đầu tiên trong lịch sử đảng, cái tên Bêrya được đưa ra ứng cử giữ
một chức vụ trong đảng). Cácvelichơvili trả lời: đồng chí đã biết nhiều về
Bêrya và vì thế, đồng chí dứt khoát từ chối làm việc với Bêrya. Khi đó, Stalin
đề nghị hãy để vấn đề này lại đấy đã, sẽ quyết định sau trong quá trình công
tác. Hai ngày sau, chúng tôi nhận được quyết định cử Bêrya giữ chức vụ trong
đảng, còn Cácvelichơvili bị trục xuất khỏi miền Trans-Kápkadơ.
Hai đồng chí Mikôian và Kaganôvích có
mặt trong khóa họp đó có thể chứng thực điều này.
Ai cũng biết là giữa Cácvelichơvili và
Bêrya đã có bất hòa từ lâu; điều này nảy sinh từ thời đồng chí Sécgô (biệt hiệu
bình dân của O³ocgiônikítdê) còn làm việc ở vùng Trans-Kápkadơ: Cácvelichơvili
là cộng sự gần gũi nhất của đồng chí Sécgô. Quan hệ thù nghịch với
Cácvelichơvili đã thúc đẩy Bêrya tạo ra "vụ án Cácvelichơvili".
Một điều đặc trưng là trong "vụ
án" này, Cácvelichơvili bị buộc tội có hành động khủng bố nhằm ám hại
Bêrya.
Bản cáo trạng trong vụ án Bêrya chứa
đựng toàn bộ danh sách những tội ác của y. Tuy nhiên, cần nhắc riêng vài sự
việc vì các đại biểu dự Đại hội có lẽ chưa có cơ hội đọc tài liệu này. Tôi muốn
nói đến những quyết định nhẫn tâm của Bêrya trong "vụ án" xử các đồng
chí Kêđrốp(7), Gôlubiép và bà Baturina, mẹ nuôi của Gôlubiép; họ muốn thông báo
cho Ban chấp hành trung ương biết hoạt động phản bội của Bêrya. Họ đều bị xử
bắn không qua xét xử, bản án chỉ được đưa ra sau khi họ đã bị hành quyết.
Đồng chí Kêđrốp, một chiến sĩ cộng sản
lão thành đã viết những dòng sau đây cho Ban chấp hành trung ương, thông qua
đồng chí Anđrêép(8) (đồng chí Anđrêép lúc đó là bí thư Ban chấp hành trung ương
):
Từ xà-lim tối tăm của nhà tù
Lêphôrơtôvô, tôi gửi lời cầu cứu các đồng chí. Hi vọng rằng tiếng kêu tuyệt
vọng của tôi lọt đến tai các đồng chí và các đồng chí sẽ không bịt tai trước
lời kêu ấy; hãy che chở cho tôi. Xin các đồng chí giúp tôi chấm dứt cơn ác mộng
của các vụ lấy cung và chỉ ra rằng tất cả những điều này đều sai lầm.
Tôi hoàn toàn vô tội. Xin các đồng chí
hãy tin ở tôi. Thời gian sẽ minh chứng cho tôi. Tôi không phải là một kẻ khiêu
khích thuộc tổ chức Okhrana(9) của Nga hoàng; không phải gián điệp; không phải
là thành viên của một tổ chức chống lại nhà nước xô-viết nào cả, như người ta
buộc tội tôi qua những lời tố cáo. Tôi là một người bônsêvích cựu trào và trong
sạch. Suốt gần bốn chục năm liên tục, tôi đã tranh đấu trung thành trong hàng
ngũ đảng cho sự phồn vinh và thịnh vượng của đất nước.
Hôm nay, tôi - một ông già 62 tuổi -
đang bị các nhân viên điều tra đe dọa bằng những phương pháp nhục hình ngày
càng tàn ác hơn, tàn nhẫn hơn và nhục nhã hơn. Họ - tức là những nhân viên điều
tra - không đủ khả năng nhìn nhận sai lầm của mình và công nhận những hành động
trái pháp luật và không được phép mà họ đã áp dụng trung trường hợp tôi. Họ cố
biện minh những việc làm của mình bằng cách coi tôi như một kẻ thù ngoan cố và
tàn bạo, và đòi hỏi những biện pháp tra tấn mới - ác liệt hơn - đối với tôi.
Nhưng đảng cần biết tôi là người vô tội và không thế lực nào có thể biến một
đứa con trung thực thành kẻ thù của đảng, dầu nó đang thở những hơi cuối cùng.
Đối với tôi, không còn đường ra. Tôi không thể chống cự được những đòn - mới và
mạnh hơn - đang đe dọa tôi.
Nhưng mọi thứ đều có giới hạn của nó.
Tôi đã bị tra tấn tột độ. Sức khỏe tôi đã suy sụp. Sức lực và nhiệt huyết của
tôi đang kiệt quệ, đời tôi sắp tàn.
Chết trong nhà ngục của Liên Xô, bị mang
theo cái nhãn hiệu "kẻ phản bội tổ quốc" - thử hỏi còn gì kinh khủng
hơn đối với một con người trung thực? Mọi điều này mới đáng sợ làm sao! Nỗi đau
và niềm cay đắng vô bờ bến ngập tràn trái tim tôi. Không! Không! Không thể như
thế được! Không thể được! - tôi phải thét lên. Đảng, chính phủ Liên Xô và đồng
chí Dân ủy Bêrya không thể để xảy ra một sự bất công ác độc và không thể bù đắp
như thế này được! Và tôi tin tưởng sắt đá rằng nếu trường hợp của tôi được xem
xét từ tốn, khách quan, minh bạch và nếu không có những lời xỉ vả thô bạo,
những tràng gào rống cuồng nộ và những vụ tra tấn ghê sợ, có thể chứng minh một
cách dễ dàng tính vô căn cứ trong những lời buộc tội tôi. Tôi tin tưởng sâu sắc
là công lý và bộ máy tư pháp sẽ chiến thắng. Tôi tin tưởng như thế. Tôi tin
tưởng như thế.
Chiến sĩ bônsêvích lão thành, đồng chí
Kêđrốp, đã được Tòa án Quân sự công nhận là vô tội. Dầu vậy, đồng chí vẫn bị
hành quyết theo lệnh của Bêrya. (Phòng họp công phẫn).
Bêrya còn thanh trừng tàn nhẫn với gia
đình đồng chí O³ocgiônikítdê. Vì sao? Vì đồng chí O³ocgiônikítdê đã muốn ngăn
cản, không cho Bêrya thi hành những ý đồ đê tiện của hắn, Bêrya đã gạt bỏ tất
cả những ai có thể là trở ngại trên con đường của hắn. Đồng chí O³ocgiônikítdê
luôn luôn là địch thủ của Bêrya và đồng chí cũng nói thẳng điều ấy với Stalin.
Nhưng, đáng lý phải khảo sát vụ này và thực hiện những biện pháp cần thiết thì
Stalin lại để cho người em của đồng chí O³ocgiônikítdê bị thủ tiêu và đưa đồng
chí O³ocgiônikítdê vào một trạng thái khiến đồng chí đành phải tự vẫn.(10) (Cả
phòng họp phẫn nộ)
Bêrya là con người như thế đó.
Bêrya đã bị Trung ương đảng vạch mặt sau
khi Stalin chết. Sau khi thẩm xét kỹ lưỡng mọi hành vi của Bêrya, tòa án nhận
định hắn đã phạm nhiều tội ác tàn bạo. Do đó, Bêrya đã bị xử bắn.
Vấn đề đặt ra là làm sao trong lúc sinh
thời Stalin, Bêrya không bị vạch mặt dù khi ấy, y đã thủ tiêu hàng vạn cán bộ
cao cấp của đảng và xô-viết? Sở dĩ Bêrya không bị lột mặt nạ sớm vì hắn đã biết
lợi dụng rất khéo léo những nhược điểm của Stalin: khêu gợi sự ngờ vực, tính đa
nghi của Stalin, Bêrya đã phục vụ Stalin trong mọi việc và đã hành động với sự
ủng hộ của Stalin(11).
Chú thích:
1- Lavrenti P. Bêrya (1899-1953): tay
chân đắc lực của Stalin trong các vụ thanh trừng thập niên 30.
Giữa lúc lên án những phương pháp tố cáo
bịa đặt của Stalin, Khrushốp cũng dùng những biện pháp này đối với Bêrya: tố
giác Bêrya là "tay sai của các tổ chức gián điệp ngoại bang". Sự
thật, Bêrya là một tên quan liêu, xuất thân từ giai cấp công nhân như Khrushốp.
Là đảng viên từ năm 1920, thành viên (O.) G.P.U. năm 1922, ủy viên Ban chấp
hành Trung ương năm 1934 cùng một lượt với Khrushốp và Bunganin, Dân ủy Nội vụ
từ cuối năm 1938, ủy viên Bộ Chính trị từ năm 1939, nguyên soái công an Liên
Xô, phó chủ tịch thứ nhất Hội đồng Chính phủ. Bêrya là một trong ba ủy viên Bộ
Chính trị được đọc điếu văn trong đám tang Stalin. Bị bắt và tử hình sau khi
Stalin chết.
2- Chẳng những Bêrya đã "dẫm lên
không biết bao nhiêu xác chết để leo ngày một cao lên các bậc thang chính
quyền", những kẻ khác cũng có hành vi tương tự, chẳng hạn Kaganôvích và
Mikôian đã "dẫm lên xác chết" của Dinôviép và Kamênép ở Bộ Chính trị.
Và chính nhờ việc Stalin thủ tiêu các cựu đồng chí của Lênin mà Khrushốp được
đề cử làm bí thư Ban chấp hành Trung ương đảng bộ Ukraina, thay thế Kốtsiô bị
xử bắn.
3- G.N. Kaminsky (1895-1938): gia nhập
đảng năm 1913, ủy viên Ban chấp hành Trung ương năm 1930, Dân ủy Bộ Y tế. Bị
bắt và bị tử hình năm 1938.
4- Phong trào quốc gia thân Thổ Nhĩ Kỳ ở
vùng Aderbaigian. Chống lại cách mạng tháng Mười năm 1917, bị đè bẹp năm 1920.
5- Alếchsanđrơ Snegốp: đảng viên từ năm
1917, chủ tịch Ban Tổ chức đảng miền Trans-Kápkadơ năm 1931.
6- Lavrentiép Cácvelichơvili
(1891-1938): gia nhập đảng từ năm 1910, ủy viên dự khuyết Ban chấp hành Trung
ương năm 1930, chủ tịch Hội đồng Dân ủy vùng Grudya thời kỳ 1927-1929, bí thư
thứ nhất đảng ủy vùng Trans-Kápkadơ..
7- Mikhain S. Kêđrốp (1878-1940): gia
nhập đảng từ năm 1901. Được Lênin giao nhiệm vụ xuất bản cuốn Trong mười hai
năm, thâu tóm các văn kiện của Lênin. Thành viên cao cấp của cơ quan Chêka thời
kỳ 1918-1924. Biệt tích trong một thời gian dài. Sau khi Bêrya bị xử án, người
ta mới được biết Kêđrốp đã bị hành quyết năm 1940.
8- Anđrây Anđrêiép (1895-1971): ủy viên
Ban chấp hành Trung ương từ năm 1920, ủy viên Bộ Chính trị từ năm 1932.
9- Bộ phận do thám chính trị của cơ quan
mật vụ Nga hoàng trong thời kỳ 1880-1917.
10- Grêgôri O³ocgiônikítdê (1886-1937):
biệt hiệu là Sécgô, cùng quê (miền Grudya) và là bạn thân của Stalin, từng cộng
tác với Stalin trong việc thanh trừng tàn nhẫn đảng bộ Grudya, khiến Lênin phải
lên tiếng phê phán nghiêm khắc. Trong thư viết cho Ban chấp hành Trung ương
ngày 31-12-1922, Lênin nói:
Phải trừng phạt đồng chí O³ocgiônikítdê
để làm gương.... Về mặt chính trị, dĩ nhiên phải coi Stalin và Gierginsky là
những người chịu trách nhiệm trong chiến dịch tuyên truyền chủ nghĩa quốc gia -
Đại Nga.
O³ocgiônikítdê đã tiếp tay cho Stalin
trong việc thủ tiêu các cựu đồng chí của Lênin. Được cử vào Bộ Chính trị cùng
lượt với Kaganôvích và Mikôian. O³ocgiônikítdê "tự vẫn" sau khi người
bạn thân - Piatakốp - bị bắt. Nhiều sử gia cho là bị ám sát.
11- Ở đây, Khrushốp có phần biện hộ cho
Stalin, đổ tội lỗi cho Bêrya. Kỳ thực, Bêrya - cũng như Yagôđa và Êgiốp - chỉ
là thủ hạ trung thành của Stalin và thực hiện mọi nhiệm vụ do Stalin giao phó.
Thành thử, không thể có chuyện "vạch mặt" Bêrya lúc "sinh thời
Stalin", trừ phi Stalin muốn điều đó.
===========================
Phụ lục
Thư
của Lênin gửi Trốtsky
Đồng chí Trốtsky thân mến,
Tôi yêu cầu đồng chí khẩn thiết đứng ra
bảo vệ vấn đề Grudya trước Ban chấp hành trung ương đảng. Hiện nay, vụ này đang
bị Stalin và Giécginsky giải quyết bằng cách ngược đãi và vì thế, tôi không thể
tin ở sự khách quan của họ. Trái lại, tôi sẽ yên lòng nếu đồng chí nhận bảo vệ
vấn đề này. Nếu vì lẽ gì khác, đồng chí không nhận, tôi yêu cầu gửi tất cả hồ
sơ(1) lại cho tôi. Như thế, tôi sẽ hiểu là đồng chí đã từ chối.
Gửi lời chào thân mến và tình bằng hữu
đến đồng chí,
Ngày 5-3-1923
Lênin
Thư
của Krúpskaia gửi Trốtsky
Lép Đaviđôvích thân mến,
Tôi viết thư này để nói cho đồng chí
biết: ngay trước khi qua đời chừng một tháng, Vlađimia Ilích lật từng trang
cuốn sách của đồng chí và ngừng lại ở đoạn đồng chí phân tích Mác và Lênin.
Lênin yêu cầu tôi đọc cho đồng chí nghe đoạn đó một lần nữa. Lênin rất chăm chú
lắng nghe và sau đó, đồng chí cũng đọc lại. Tôi còn muốn nói với đồng chí điều
này nữa: cho đến tận khi mất, Vlađimia Ilích vẫn nghĩ về đồng chí như khi đồng
chí từ Sibia đến chỗ chúng tôi ở Lônđơn(2).
Lép Đaviđôvích, chúc đồng chí nhiều nghị
lực và khỏe mạnh. Ôm hôn đồng chí(3).
N. Krúpskaia
Di
chúc chính trị của Lênin (Thư gửi Đại hội)
Đảng ta dựa trên hai giai cấp và vì thế,
tình trạng mất ổn định có thể xảy ra và sự sụp đổ cũng không tránh khỏi nếu
giữa hai giai cấp này không thể đạt được một sự đồng thuận. Trong trường hợp
đó, thực hiện biện pháp này hay biện pháp khác, thậm chí, suy ngẫm về sự bền
vững của Ban chấp hành trung ương - là một việc vô ích. Trong trường hợp đó,
không một biện pháp nào có thể ngăn chặn được sự chia rẽ. Nhưng tôi mong đó chỉ
là một tương lai rất xa xôi và có xác xuất quá nhỏ để chúng ta phải bàn luận
trong lúc này.
Tôi nghĩ đến sự bền vững đảm bảo sự chia
rẽ không xảy ra trong một tương lai gần và tôi muốn đề cập đến ở đây vài suy
nghĩ có tính cách hoàn toàn cá nhân.
Trên phương diện này, tôi cho rằng vấn
đề thiết yếu trong việc ổn định là Ban chấp hành trung ương và những thành viên
như Stalin và Trốtsky. Theo ý tôi, quan hệ giữa hai người chiếm hơn nửa phần
mối họa chia rẽ - có thể tránh khỏi - và theo tôi, ta có thể tránh khỏi bằng
một trong các phương pháp là tăng số ủy viên Ban chấp hành trung ương lên 50
hoặc 100 người.
Đồng chí Stalin, từ khi trở thành tổng
bí thư đảng, đã thâu tóm vào tay mình một quyền hành vô hạn mà tôi không chắc
đồng chí ấy sẽ luôn biết sử dụng một cách chừng mực. Mặt khác, đồng chí Trốtsky
- ngay như cuộc đấu tranh chống Ban chấp hành trung ương về vấn đề Bộ Dân ủy
Giao thông đã chứng tỏ - không chỉ nổi bật về khả năng xuất chúng mà thôi. Đứng
về phương diện cá nhân, tuy rằng có lẽ Trốtsky là người tài năng nhất trong Ban
chấp hành trung ương hiện nay, nhưng đồng chí hay quá lời bởi tính tự tin và sự
say mê khía cạnh hành chính thuần túy của công việc.
Hai bản tính ấy của hai nhà lãnh đạo
xuất sắc trong Ban chấp hành trung ương hiện nay có thể dẫn tới sự chia rẽ và
nếu đảng ta không thực hiện những biện pháp đề phòng, sự chia rẽ ấy có thể bất
ngờ xảy ra.
Tôi miễn phân tích những ủy viên khác
của Ban chấp hành trung ương theo bản tính cá nhân của họ. Tôi chỉ lưu ý: biến
cố tháng Mười của Dinôviép và Kamênép tất nhiên không tình cờ, nhưng không thể
quy điều này là tội lỗi cá nhân của họ, cũng như không thể buộc tội Trốtsky
không phải người bônsêvích.(4)
Trong số những thành viên trẻ của Ban
chấp hành trung ương, tôi muốn nói vài lời về Bukharin và Piatakốp. Theo ý tôi,
họ là những cán bộ xuất sắc nhất (trong số những người trẻ tuổi) và trong quan
hệ với họ, chúng ta cần chú ý như sau: Bukharin chẳng những là lý thuyết gia
quý báu nhất và cứng cáp nhất của đảng, mà chúng ta còn có quyền coi đồng chí
là con cưng của toàn đảng, nhưng những quan niệm lý luận của đồng chí chỉ có
thể được coi là hoàn toàn mác-xít một cách rất dè dặt, bởi có cái gì kinh viện
trong đó (đồng chí chưa bao giờ học hỏi và theo ý tôi, chưa bao giờ thông hiểu
toàn bộ thuyết biện chứng).
Ngày 24-12-1922
Về Piatakốp, không ai chối cãi là được
đồng chí có nghị lực sắt đá và rất tài năng, nhưng lại quá thiên về công việc
hành chính và quá thiên về khía cạnh hành chính của công việc, thành thử không
thể dựa vào đồng chí trong những vấn đề chính trị quan trọng.
Dĩ nhiên, tất cả những nhận định này của
tôi chỉ có giá trị trong giai đoạn hiện tại và trong trường hợp hai cán bộ xuất
sắc và tận tâm này không có dịp bồi bổ những hiểu biết và vượt qua những phiến
diện của mình.
Ngày 25-12-1922
Bổ sung thư ngày 24-12-1922: Stalin là
người có tính thô lỗ thái quá và nhược điểm này hoàn toàn có thể chịu đựng được
giữa chúng ta và trong quan hệ giữa những người cộng sản, nhưng không thể chấp
nhận được trên cương vị tổng bí thư đảng. Vì thế, tôi đề nghị các đồng chí hãy
suy nghĩ về việc chuyển Stalin khỏi trọng trách ấy và đề cử vào vị trí của
Stalin một đồng chí khác, có bản tính tốt hơn so với Stalin: kiên nhẫn hơn,
trung thực hơn, lịch sự hơn và chu đáo hơn đối với các đồng chí, ít thất thường
hơn v.v... Có thể trường hợp này dường như không đáng kể, nhưng tôi tin rằng -
để phòng ngừa sự chia rẽ và trên phương diện những tôi đã viết ở trên về mối
quan hệ giữa Stalin và Trốtsky - điều này không hề nhỏ nhặt, bằng không, đó là
sự nhỏ nhặt có thể mang tầm quan trọng quyết định.
Ngày 4-1-1923
Lênin
Chú
thích:
1- Kèm theo lá thư ngắn này, Lênin gửi
Trốtsky tập hồ sơ về vấn đề Grudya.
2- Trốtsky gặp gỡ Lênin và Krúpskaia lần
đầu tiên tại London tháng 10-1902, khi ấy ông vừa trốn khỏi Sibérie ra nước
ngoài.
3- Lá thư này được viết vài ngày sau khi
Lênin mất. Nó bác bỏ lập luận thịnh hành trong nhiều năm của bộ máy tuyên
truyền xta-lin-nít, bảo rằng Lênin đang hồi phục, nhưng bị chảy máu não và qua
đời khi đọc những bản tranh luận của Trốtsky và các đồng sự của ông trên tờ
Prápđa.
4- Đến tháng 7-1917, Trốtsky mới gia
nhập đảng bônsêvích.
=============================================
Tại Việt Nam
Thơ Tố Hữu về Stalin
Đời
đời nhớ Ông
Bữa trước mẹ cho con xem ảnh
Ông Stalin bên cạnh nhi đồng
Áo Ông trắng giữa mây hồng
Mắt Ông hiền hậu, miệng Ông mỉm cười
Stalin! Stalin!
Yêu biết mấy, nghe con tập nói
Tiếng đầu lòng con gọi Stalin!
Hôm qua loa gọi ngoài đồng
Tiếng loa xé ruột xé lòng biết bao
Làng trên xóm dưới xôn xao
Làm sao, Ông đã... làm sao, mất rồi!
Ông Stalin ơi, Ông Stalin ơi!
Hỡi ơi, Ông mất! Đất trời có không?
Thương cha, thương mẹ, thương chồng
Thương mình thương một, thương Ông
thương mười
Yêu con yêu nước yêu nòi
Yêu bao nhiêu lại yêu Người bấy nhiêu!
Ngày xưa khô héo quạnh hiu
Có người mới có ít nhiều vui tươi
Ngày xưa đói rách tơi bời
Có người mới có được nồi cơm no
Ngày xưa cùm kẹp dày vò
Có người mới có tự do tháng ngày
Ngày mai dân có ruộng cày
Ngày mai độc lập ơn này nhớ ai
Ơn này nhớ để hai vai
Một vai ơn Bác một vai ơn Người
Con còn bé dại con ơi
Mai sau con nhé trọn đời nhớ Ông!
Thương Ông mẹ nguyện trong lòng
Yêu làng, yêu nước, yêu chồng, yêu con
Ông dù đã khuất không còn
Chân Ông còn mãi dấu son trên đường
Trên đường quê sáng tinh sương
Hôm nay nghi ngút khói hương xóm làng
Ngàn tay trắng những băng tang
Nối liền khúc ruột nhớ thương đời đời
(Tố Hữu, 5-1953)
--------------------
Bài
ca tháng Mười
Thủa Anh chưa ra đời
Trái đất còn nức nở
Nhân loại chửa thành người
Đêm ngày năm man rợ
...
Từ khi Anh đứng dậy
Trái đất bắt đầu cười
Và loài người từ đấy
Ca bài ca tháng Mười
Hoan hô Stalin!
Đời đời cây đại thọ
Rợp bóng mát hòa bình
Đứng đầu sóng ngọn gió
Hoan hô Hồ Chí Minh!
Cây hải đăng mặt biển
Bão táp chẳng rung rinh
Lửa trường kỳ kháng chiến!
(Tố Hữu, 1950)
====================
Các trang liên quan:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét