Đọc “Bên Thắng Cuộc”
(1)
Quyền bính
Tướng Giáp
Sau Bên Thắng Cuộc, Phần I: Giải phóng,
Huy Đức dẫn người đọc đến Phần II: Quyền bính. Tác giả khẳng định: “Quyền Bính
không phải là một cuốn sách nói chuyện “thâm cung bí sử” cho dù có nhiều câu chuyện,
có nhiều nhân vật được đặc tả rất cận cảnh. Những câu chuyện được kể trong cuốn
sách này là sự chia sẻ của rất nhiều người trong cuộc về một giai đoạn mà Việt
Nam đã bỏ lỡ những cơ hội có thể đi tới mục tiêu “công bằng, dân chủ, văn minh”
do chính đảng cầm quyền đề ra”.
Tuy nhiên, người đọc, nhất là những
người thuộc “bên thua cuộc”, vẫn coi đây là chuyện “thâm cung bí sử” vì (1) họ
không có cơ hội tiếp xúc một cách gần gũi với các nhân vật quan trọng của Đảng
Cộng sản như nhà báo Huy Đức và, (2) họ không là “người trong nội bộ Đảng” nên
những gì cuốn sách tiết lộ đều được coi là những góc khuất về quyền lực tại Ba
Đình.
Gần một chục nhân vật chóp bu trong đảng
đều có những góc khuất của riêng mình và việc khám phá ra chúng làm cho cuốn
sách có giá trị lịch sử thú vị, cho dù sự tin cậy của các tài liệu Huy Đức cung
cấp không phải là hoàn toàn khả tín hoặc chính Huy Đức cũng là nạn nhân của sự
cố tình đánh lạc hướng do chính các nhân vật tạo ra.
Nói như vậy để hiểu rằng mỗi người đọc
sẽ có đánh giá riêng của mình về cuốn sách sau khi đã loại trừ những thông tin,
những vấn đề còn nhiều tranh cãi hoặc nghi vấn.
Trong Mấy lời của tác giả, nhà báo Huy
Đức viết, “Những năm đầu thập niên 1990, chúng tôi được bố trí ăn, ở với các
đoàn đại biểu tại nhà khách số 8 Chu Văn An; được dự hầu hết các phiên thảo
luận mà các đại biểu đang là ủy viên Trung ương, ủy viên Bộ chính trị. Chúng
tôi cũng dễ dàng gặp gỡ, trò chuyện với Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, Tổng Bí
thư Đỗ Mười, Chủ tịch nước Lê Đức Anh, Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Thủ tướng Phan
Văn Khải, Chủ tịch Quốc hội Lê Quang Đạo, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh”.
Trong phạm vi bài viết này, nhân vật
chúng tôi muốn nói đến là Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Lịch sử đã ghi chép, duới
gốc đa Tân Trào, tại tỉnh Tuyên Quang, ngày 22/11/1944, ông Giáp cùng với 34
chiến sĩ, trong đó có 3 nữ, ra mắt lực lượng đầu tiên của Việt Minh với tên gọi
Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân”, tiền thân của Quân đội Nhân dân
Việt Nam ngày nay.
Trong bước đầu thành lập, đội quân này
được trang bị vỏn vẹn 2 súng thập (một loại súng ngắn), 17 súng trường, 14 súng
kíp và 1 súng máy. Bức ảnh lịch sử thành lập quân đội dưới đây, tướng Giáp là
người đội mũ phớt đứng bên trái. Sau này, Lê Đức Thọ đã gọi ông là… “ông tướng
mũ phớt”.
Võ Nguyên Giáp và đội Việt Nam Tuyên
truyền Giải phóng quân
Đến tháng 5/1948, tức khoảng 3 năm rưỡi
sau, Võ Nguyên Giáp được ông Hồ Chí Minh phong chức Đại tướng, khi ấy mới 37
tuổi. Đó là cả một “huyền thoại” trong cuộc đời binh nghiệp vì có lẽ trên thế
giới chỉ mới thấy xuất hiện hai đại tướng được phong vượt 17 cấp như thế! Đầu
tiên là ông Giáp và sau này, ở Bắc Triều Tiên, có Kim Jong-un.
Từ đó người ta gọi ông là “Tướng Giáp”
và ông đã trải qua những chức vụ quan trọng như Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư
Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng tư lệnh Quân đội cho đến năm
1982.
Võ Nguyên Giáp được coi là một nhà chỉ
huy quân sự, nhà hoạt động chính trị và là đại tướng đầu tiên của Quân đội Nhân
dân. Ông cũng là chỉ huy chính trong chiến tranh Đông Dương (1946–1954) và
chiến tranh Việt Nam (1960–1975). Tướng Giáp tham gia vào nhiều chiến dịch quan
trọng như Chiến dịch Biên giới Thu đông (1950), Trận Điện Biên Phủ (1954),
Chiến dịch Tết Mậu Thân (1968), Chiến dịch năm 1972 và Chiến dịch Hồ Chí Minh
(1975).
Điểm đặc biệt về vị Đại tướng đầu tiên
của Quân đội Nhân dân là ông chưa từng trải qua một trường lớp quân sự nào. Bên
Thắng Cuộc tiết lộ: “Cụ Hồ cũng đã từng cử Võ Nguyên Giáp sang Trung Quốc học
quân sự. Nhưng trên đường đi, Chiến tranh Thế giới thứ II đưa người Pháp ở
chính quốc vào thế thua, Hồ Chí Minh thấy thời cơ tới nên gọi ông trở lại.
Tướng Giáp vì thế chưa từng qua bất cứ một trường lớp nhà binh nào. Có lẽ, tư
duy quân sự của ông hình thành trong những năm dạy sử”.
Hồ Chí Minh & Võ Nguyên Giáp
Tướng Giáp sinh ngày 25/8/1911 tại thôn
An Xá, xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, Quảng Bình. Gia đình Võ Nguyên Giáp có 7 anh
chị em, nhưng người anh cả và chị cả mất sớm nên còn lại năm, 3 người con gái
và 2 người con trai là Võ Nguyên Giáp và Võ Thuần Nho, sau này là Thứ trưởng Bộ
Giáo dục.
Những năm học ở Trường Quốc Học Huế ông
thường tới nhà cụ Phan Bội Châu đàm đạo và được cụ Phan cho mặc sức sử dụng kho
sách của mình. Giáp cũng chơi thân với thầy giáo Đặng Thai Mai.
Năm ông mười sáu tuổi, người Pháp đuổi
học Nguyễn Chí Diểu. Giáp khởi xướng một cuộc bãi khóa để phản đối. Vì sự kiện
ấy, Giáp cũng bị đuổi học. Nguyễn Chí Diểu đến An Xá tìm Giáp và tiết lộ“Chúng
tôi đã lập Đảng Tân Việt” (chứ không phải Việt Tân ngày nay!). Giáp bảo: “Tôi đi với anh”. Võ Nguyên Giáp là
người đã góp phần tích cực đưa Tân Việt tham gia Đông Dương Cộng sản Đảng.
Đầu tháng 10/1930, trong sự kiện Xô Viết
Nghệ Tĩnh, Võ Nguyên Giáp bị bắt và bị giam ở Nhà lao Thừa Phủ (Huế), cùng với
người yêu là Nguyễn Thị Quang Thái, em trai là Võ Thuần Nho và các giáo sư Đặng
Thai Mai, Lê Viết Lượng... Năm 1935, Nguyễn Thị Quang Thái trở thành người vợ
đầu tiên và có một con với ông.
Võ Nguyên Giáp & Nguyễn Thị Quang Thái
Chị Quang Thái hẹn khi con (Võ Hồng Anh)
cứng cáp sẽ đi thoát ly hoạt động cùng chồng. Nhưng cả hai không ngờ lần chia
tay năm 1940 cũng là lần vĩnh biệt, chị Thái bị người Pháp bắt giam và chết
trong tù năm 1944. Theo lịch sử đảng, bà Thái là một hình tượng người phụ nữ
mẫu mực, kiên trung, yêu nước và được phong tặng danh hiệu “liệt sĩ”.
Nguyễn Thị Quang Thái & Võ Hồng Anh
Giáo sư - Tiến sĩ Võ Hồng Anh
(1941-2009), con gái Tướng Giáp, kể lại: “Năm 1929, cha tôi lần đầu tiên nghe
nhắc đến cái tên Nguyễn Thị Quang Thái, cô em gái trẻ, thông minh và rất xinh
của Nguyễn Thị Minh Khai. Trong chuyến tàu cha tôi trở lại Huế, tới Vinh thì
gặp mẹ tôi lên tàu, cùng với một nữ sinh Đồng Khánh. Lúc đó mẹ tôi mặc áo dài,
tóc để xõa, da trắng, gương mặt sáng. Nhưng điểm gây ấn tượng với cha tôi nhất
là đôi mắt”.
Tướng Giáp và con gái, GS-TS Võ Hồng Anh
Cuối năm 1931, nhờ sự can thiệp của Hội
Cứu tế Đỏ của Pháp, Võ Nguyên Giáp được trả tự do nhưng lại bị Công sứ Pháp tại
Huế ngăn cấm không cho ở lại Huế. Ông ra Hà Nội, học trường Albert Sarraut,
nhận bằng cử nhân luật năm 1937 (Licence en Droit). Do bận rộn hoạt động cách
mạng, vào năm 1938, ông bỏ dở học chương trình năm thứ tư về Kinh tế Chính trị
và không lấy bằng Luật sư.
Từ 1936 đến 1939, Võ Nguyên Giáp tham
gia phong trào Mặt trận Dân chủ Đông Dương, là sáng lập viên của mặt trận đồng
thời là Chủ tịch Ủy ban Báo chí Bắc Kỳ trong phong trào Đông Dương đại hội. Ông
tham gia thành lập và làm báo tiếng Pháp Notre voix (Tiếng nói của chúng ta),
Le Travail (Lao động), biên tập các báo Tin tức, Dân chúng.
Tháng 5/1939, Võ Nguyên Giáp nhận dạy
môn lịch sử tại Trường Tư thục Thăng Long, Hà Nội, do Hoàng Minh Giám làm giám
đốc nhà trường. Một trong những học trò của Tướng Giáp, ông Bùi Diễm, người đã
từng là bộ trưởng Phủ Thủ tướng Việt Nam Cộng Hòa năm 1965, viết:
“Những gì về ông Giáp hồi ấy thật đặc
biệt, vì vậy mà hơn nửa thế kỷ sau, tôi vẫn còn nhớ rõ rệt. Phần giảng dạy của
ông về Nã Phá Luân rất ly kỳ... Hình như ông đã in tất cả trong đầu và sử trở
thành một phần trong con người ông. Ông như chìm đắm vào thế giới của mình và
ông lôi kéo học trò vào thế giới đó” (Bùi Diễm, Trong Gọng Kìm Lịch Sử, Phạm
Quang Khai xuất bản năm 2000, trang 21, 22, 23).
Hồ Chí Minh & Võ Nguyên Giáp
(1950)
Mối quan hệ giữa Lê Duẩn và Võ Nguyên
Giáp thoạt đầu được mô tả là khá thân thiện, đằm thắm. Bên Thắng Cuộc trích dẫn
lời Tướng Giáp: “Lúc mới ra Bắc, anh Lê Duẩn thường tâm sự với tôi những khó
khăn trong công việc. Anh đã nhiều lần nói với tôi, năm 1940 nhờ có chị Thái
nên anh thoát khỏi án tử hình”.
Câu chuyện về “chị Thái” mà ông Lê Duẩn
đề cập, theo Huy Đức, xảy ra trong phiên tòa xử những người lãnh đạo Nam Kỳ
khởi nghĩa, Lê Duẩn và Nguyễn Thị Minh Khai đứng đối diện trong song sắt trước
tòa. Minh Khai viết một bức thư nhỏ, gấp lại rồi ném cho Lê Duẩn, chẳng may thư
rơi xuống gần người lính canh ngục. Nguyễn Thị Quang Thái đứng gần đó, nhanh
chóng nhặt và nuốt ngay lá thư.
Năm 1946, khi ông Đặng Thai Mai
(1902-1984) chuyển từ Sầm Sơn ra Hà Nội, Giáp tìm tới thăm, lúc này cô con gái
của thầy Mai, Đặng Bích Hà, đã là một cô gái mười chín xuân thì. Họ lấy nhau và
có bốn người con. Đặng Bích Hà sau này là Phó giáo sư lịch sử tại trường Đại
học Sư phạm Hà Nội.
Võ Nguyên Giáp & Đặng Bích Hà
Sau 1954, gia đình Tướng Giáp – Đặng
Bích Hà, kể cả người con gái của ông (Võ Hồng Anh) với bà vợ trước Nguyễn Thị
Quang Thái, sống quây quần trong biệt thự, số 30 Hoàng Diệu, Hà Nội.
Võ Nguyên Giáp - Đặng Bích Hà cùng 5
người con
Võ Hồng Anh, Võ Hạnh Phúc, Võ Điện Biên,
Võ Hồng Nam và Võ Hòa Bình
(1963)
Bên Thắng Cuộc, Chương 15: Tướng Giáp,
bàn về mối quan hệ giữa Lê Duẩn [1] cùng những người thân cận của ông với Tướng
Giáp. Nổi bật nhất là sự thật về vụ án chống đảng “Năm Châu - Sáu Sứ” năm 1967
đến sự kiện về việc “Thống chế đi đặt vòng”.
Chương 15 cũng trưng nhiều tài liệu về
vai trò thực sự của Tướng Giáp trong cuộc chiến tranh 1955-1975, Sự kiện Vịnh
Bắc bộ, Tết Mậu Thân 1968. Huy Đức đưa Tướng Giáp vào cuối phần Dấu ấn Nguyễn
Văn Linh, đó là thời điểm bắt đầu một nỗ lực nhằm hạ uy tín của “Vị tướng Điện
Biên” diễn ra vào cuối nhiệm kỳ Tổng bí thư.
Từ trái qua phải:
Nguyễn Văn Linh, Võ Nguyên Giáp, Hoàng
Văn Thái
Lịch sử ghi lại, mãi tới tháng 5/1940,
Võ Nguyên Giáp mới sang Trung Quốc gặp Hồ Chí Minh và tham gia Đảng Cộng sản
Đông Dương trong khi năm 1939 Lê Duẩn đã được bổ sung vào Thường vụ Trung ương Đảng.
Tuy nhiên, trong thời gian Lê Duẩn gần như mờ nhạt ở miền Nam thì Võ Nguyên
Giáp đã “lừng lẫy Điện Biên, chấn động địa cầu” tại miền Bắc.
Theo ông Hoàng Tùng, khi đó là chánh Văn
phòng Trung ương Đảng, “Khi mới từ miền Nam ra, cả Lê Duẩn và Lê Đức Thọ [2]
đều không thấy thoải mái khi ngồi cùng Tướng Giáp. Cho dù lịch sử gắn bó giữa
Lê Đức Thọ và Lê Duẩn bắt đầu bằng một cuộc đụng độ [3]. Kể từ khi Lê Duẩn ra
Bắc, Lê Đức Thọ đã đóng một vai trò quan trọng trong quy trình cán bộ đưa Lê
Duẩn đạt đến đỉnh cao quyền lực”.
Về phần mình, ông Giáp cũng đã rất giữ
mình, đặc biệt, với Lê Duẩn. Năm 1956, Trung ương Đảng thừa nhận sai lầm trong
cải cách ruộng đất, Trường Chinh xin từ chức, Hồ Chí Minh lúc bấy giờ là chủ
tịch Đảng kiêm thêm chức vụ tổng bí thư. Ông Giáp, lúc đó đang là trợ lý về
Đảng của Hồ Chí Minh, tiết lộ:
“Tháng 7/1956, tôi đề nghị Bộ Chính trị
cử anh Ba [Lê Duẩn] làm phó tổng bí thư để dễ làm việc,nhưng anh đã từ chối và
nói, nên chờ đại hội quyết định. Tại hội nghị Bộ Chính trị bàn việc chuẩn bị
đại hội, khi được đề nghị làm trưởng ban chuẩn bị Báo cáo Chính trị, anh cũng
từ chối và nói, ‘đã mười năm không ở miền Bắc, chủ trì chuẩn bị báo cáo e khó
khăn, vì vậy đề nghị hai đồng chí Trường Chinh và Võ Nguyên Giáp tham gia’.
Cuối cùng Bộ Chính trị đề nghị Bác làm trưởng ban, anh Ba làm phó”.
Hoàng Tùng kể lại, “Lê Đức Thọ gặp không
ít đàn em gợi ý thẳng… ‘giờ đến lượt tao’. Những năm 1945, 1946, thế Lê Đức Thọ
lớn lắm, chỉ sau Hồ Chí Minh, Trường Chinh. Bác cử Lê Đức Thọ vào Nam cũng có ý
không để hai ‘con hổ’ Trường Chinh, Lê Đức Thọ gần nhau. Nhưng khi Bác lấy
phiếu thăm dò, không ai đề cử Lê Đức Thọ cả. Trong bốn ứng cử viên Lê Duẩn,
Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Lê Duẩn cao phiếu hơn hẳn”.
Ngày 26/8/1945, Tướng Giáp về Hà Nội
sau khi Việt Minh giành được chính quyền
Tiếp đến là thời kỳ Tết Mậu Thân. Ngày
1/1/1968, sau khi thăm một số nơi bị máy bay bắn phá ở Hà Nội, vào lúc 2 giờ 30
chiều và tiếp “Bộ Chính trị đến làm việc”, ông Hồ Chí Minh tiếp tục “sang Bắc
Kinh dưỡng bệnh”. Ở Hà Nội, bàn tay của Lê Đức Thọ bắt đầu siết mạnh hơn.
Để đảm bảo hoàn toàn bí mật chiến dịch
Tổng công kích Tết Mậu Thân, chỉ trước khi nổ súng một tuần, Lê Duẩn mới triệu
tập các ủy viên Trung ương về Kim Bôi họp Hội nghị Trung ương lần 14. Tại hội
nghị, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn thông báo với Trung ương rằng trong cuộc họp quan
trọng này “có nhiều đồng chí vắng mặt”. Lê Duẩn giải thích:
“Trước hết, tôi xin báo cáo với các đồng
chí, lần này hội nghị Trung ương chúng ta họp, có một số đồng chí Trung ương bị
ốm không đến được, có một số đồng chí bận việc không đến được. Trong Bộ Chính
trị cũng có đồng chí bận việc không đến được, một số đồng chí sẽ đến, mai có
đồng chí Thọ (Lê Đức Thọ), đồng chí Dũng (Văn Tiến Dũng) sẽ đến báo cáo”
Sau Hội nghị Trung ương 14, chiều
20/1/1968, Lê Đức Thọ có đến Bắc Kinh để “báo cáo Bác Hồ”. Tướng Giáp khi đó
lại ở Hungary, ông nhớ lại: “Sắp nổ súng thì Bác cũng đang ở Bắc Kinh. Bác điện
cho tôi: chú thu xếp về càng sớm, càng tốt”.
Từ Hungary, Tướng Giáp bay tới Bắc Kinh.
Theo ông Vũ Kỳ, sáng 25/1/1968, Hồ Chí Minh gặp riêng Võ Nguyên Giáp. Trong
khi, cả “Cha già Dân tộc” và “Anh cả của Quân đội” vẫn đang “an trí” ở Bắc Kinh
thì những binh đoàn chủ lực miền Bắc bí mật áp sát các đô thị miền Nam.
Máy bay Trung Quốc đưa Tướng Giáp về tới
Hà Nội ngay trong ngày 29 Tết. Hôm sau ông mới được Tướng Vũ Lăng, cục trưởng
Cục Tác chiến báo cáo “Kế hoạch Tổng công kích, Tổng khởi nghĩa”. Vũ Lăng nói:
“Anh Văn Tiến Dũng bảo bây giờ thì có thể báo cáo toàn bộ với anh Văn” (Văn là
bí danh của Võ Nguyên Giáp).
Tướng Giáp cố giữ vẻ mặt bình thản để
dấu niềm cay đắng. Ông, vị tổng tư lệnh, đã không được biết một kế hoạch lớn
như vậy cho đến trước khi nổ súng một ngày. Cái đêm mà cả miền Nam chìm trong
khói lửa của Tổng tiến công Tết Mậu Thân, Hồ Chí Minh đang ở Bắc Kinh.
Theo lời kể của Vũ Kỳ, thư ký riêng của
Hồ Chí Minh, hai người ngồi “trong căn phòng vắng” để nghe lời chúc Tết của
chính ông qua đài Tiếng nói Việt Nam từ chiếc radio bán dẫn:
“Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua
Thắng lợi tin vui khắp mọi nhà
Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ
Tiến lên! Toàn thắng ắt về ta!”
Cũng theo lời Vũ Kỳ, bài thơ trên được
Hồ Chí Minh làm trong gần ba tháng khi đang ở Bắc Kinh và đã được thu thanh khi
ông về Hà Nội hồi cuối tháng 12/1967 (Vũ Kỳ, Bác Hồ với Tết Mậu Thân Năm Ấy,
báo Văn Nghệ số Xuân, năm 1998).
Bốn ngày sau khi Chiến dịch Mậu Thân bắt
đầu, một trong những nhân vật quan trọng nhất của chiến dịch, Tướng Nguyễn Văn
Vịnh [4], bị vô hiệu hóa. Ông là Ủy viên Thường trực Tổng Quân ủy, được cử vào Trung
ương Cục trao đổi Kế hoạch Mậu Thân chỉ mười ngày sau khi Tướng Nguyễn Chí
Thanh mất.
Tướng Vịnh trở lại Hà Nội vào đầu tháng
1/1968, và chính ông là người báo cáo tình hình chiến trường miền Nam với Quân
ủy và cũng là người trực tiếp soạn thảo Nghị quyết Trung ương 14.
Theo thư ký riêng của Tướng Vịnh, ông
Phạm Văn Hùng, thì chiều mồng 5 Tết Mậu Thân, ông Vịnh được Lê Đức Thọ mời tới
nhà riêng để gặp vào lúc 15 giờ. Cuộc gặp kéo dài tới chập tối nên ông Hùng
không thể chờ.
Sáng hôm sau khi ông Phạm Văn Hùng quay
lại nhà riêng và là nơi làm việc của Tướng Vịnh, 34 Cao Bá Quát, thì được ông
Vịnh cho biết, ông bị ngưng tất cả các chức vụ: ủy viên dự khuyết Trung ương
Đảng, ủy viên thường trực Quân ủy, thứ trưởng Bộ Quốc phòng.
Khoảng ba mươi nhân vật cao cấp đã bị
bắt, phần lớn là những người thân cận với Tướng Giáp như: Thiếu tướng Đặng Kim
Giang [5], Đại tá Lê Trọng Nghĩa, Đại tá Lê Minh Nghĩa, Đại tá Đỗ Đức Kiên… Trừ
một số người bị bức cung để phải khai ra “vai trò cầm đầu của Tướng Giáp” lờ mờ
nhận thấy mục tiêu chính trị của “vụ án”, phần đông cho đến tận cuối đời không
hiểu vì sao lại có vụ án này.
(Còn tiếp)
Chú thích:
[1] Lê Duẩn (1907–1986) là Bí thư Thứ
nhất Trung ương Đảng Lao động Việt Nam từ 1960 đến 1976, Tổng Bí thư Đảng Cộng
sản Việt Nam từ 1976 đến 1986. Ông là nhà lãnh đạo cao nhất của Đảng Cộng sản
Việt Nam có tổng thời gian tại vị lâu nhất với 25 năm, 303 ngày. Từ 1960 cho
đến khi qua đời năm 1986, ông có một ảnh hưởng chính trị rất lớn tại miền Bắc
và ở Việt Nam sau 1975. Ông cũng đã xác lập quyền uy tối thượng của mình trong
những năm tháng còn tại vị.
Lê Duẩn chính là người đã vạch ra chiến
lược cách mạng ở miền Nam với tác phẩm Đề cương cách mạng miền Nam. Từ bản đề
cương này, hàng loạt phong trào bạo động ở miền Nam nổ ra, dọn đường cho quân
đội Bắc Việt tấn công và đánh chiếm Sài Gòn vào năm 1975, kết thúc Chiến tranh
Việt Nam.
Lê Duẩn tên thật là Lê Văn Nhuận, sinh
ngày 7/4/1907, tại làng Bích La, xã Triệu Đông, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng
Trị. Sau đó ông theo gia đình về sinh sống tại làng Hậu Kiên, xã Triệu Thành
cùng huyện, ở bên kia dòng sông Thạch Hãn. Khu lưu niệm Cố Tổng Bí thư Lê Duẩn
hiện nay được xây dựng tại làng Hậu Kiên, xã Triệu Thành.
Pierre Asselin từng nhận xét về Lê Duẩn:
“Ông khao khát quyền lực tuyệt đối. Thông qua việc cô lập ông Hồ, ông Giáp và
các đồng minh của họ trong đảng, ông Lê Duẩn đã thiết lập một bộ máy lãnh đạo ở
Hà Nội không chỉ trung thành mà còn chung quyết tâm hoàn tất các mục tiêu cách
mạng”.
Tuy nhiên, Giáo sư Nguyễn Quang Ngọc phủ
nhận cách nhìn này, theo đó vai trò của Tướng Giáp bị làm lu mờ bởi những thành
viên Bộ Chính trị trong giai đoạn cuộc chiến tranh Việt Nam. Ông cũng cho rằng
không hề có một sự phân chia ê-kíp trong nội bộ Bộ Chính trị lúc bấy giờ, mà
theo đó Tướng Giáp được cho là thuộc phái "chủ hoà".
Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng viết rằng:
“Với tôi, những năm công tác trong Bộ Chính trị, Anh [Lê Duẩn] đã thường xuyên
trao đổi ý kiến, thường là nhanh chóng đi đến nhất trí trong những vấn đề lớn;
khi có ý kiến khác nhau thì tranh luận thẳng thắn, những điều chưa nhất trí thì
chờ thực tiễn kiểm nghiệm. Lúc mới ra Bắc, Anh thường tâm sự với tôi những khó
khăn trong công việc... Từ sau Đại hội III và Đại hội IV, tôi đã ba lần đề nghị
Anh là Tổng Bí thư kiêm luôn Bí thư Quân ủy Trung ương, nhưng Anh nói: “Anh là
Tổng chỉ huy lâu năm nên tiếp tục làm Bí thư Quân ủy Trung ương, như vậy có lợi
cho lãnh đạo”.
Hồ Chí Minh & Lê Duẩn
[2] Lê Đức Thọ (1911 – 1990) là chính
khách đã từng được trao tặng giải Nobel Hòa bình cùng Henry Kissinger vào năm
1973 nhưng ông đã từ chối với lý do hòa bình chưa thực sự lập lại trên đất nước
Việt Nam. Cho đến này, đó là giải Nobel duy nhất dành cho người Việt.
Lê Đức Thọ tên thật là Phan Đình Khải,
sinh ngày 10/10/1911, tại xã Địch Lễ, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Cha là Phan
Đình Quế, làm hương trưởng, chánh hương hội ở xã, từng được ban hàm cửu phẩm.
Hai vợ chồng ông Phan Đình Quế sinh được tám người con, trong đó có ba người
theo cộng sản: Phan Đình Khải (Lê Đức Thọ), Phan Đình Dinh (Đinh Đức Thiện),
Phan Đình Đống (Mai Chí Thọ).
Năm 1948, ông vào miền Nam làm Phó Bí
thư, kiêm Trưởng ban Tổ chức Xứ ủy Nam Bộ cho tới khi Hiệp định Genève được ký
kết năm 1954. Sau khi tập kết ra Bắc năm 1955, ông được bầu vào Bộ Chính trị
Đảng Lao động Việt Nam (sau đổi là Đảng Cộng sản Việt Nam) và đắc cử.
Đầu năm 1968, ông trở lại miền Nam làm
Phó bí thư Trung ương Cục miền Nam một thời gian ngắn. Đến tháng 5 cùng năm,
ông làm cố vấn đặc biệt cho đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Hội nghị Paris,
bàn về chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam.
Từ tháng 3/1983, ông là Bí thư phụ trách
Tư tưởng, Nội chính và Ngoại giao. Năm 1983, ông được cử làm Chủ tịch Uỷ ban
Quốc phòng. Năm 1986, ông là Trưởng Tiểu Ban Nhân sự Đại hội VI. Từ tháng 12
năm 1986, ông là Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Lê Đức Thọ & Henry Kissinger
[3] Năm 1948, với tư cách là ủy viên
Thường vụ Trung ương, Lê Đức Thọ được cử vào Nam, nơi ông Lê Duẩn đang là bí
thư Xứ ủy Nam Bộ. Trong một hội nghị do Xứ ủy tổ chức vào năm 1949, Lê Đức Thọ
đã xuất hiện như một cấp trên, chỉ trích Xứ ủy Nam Bộ bằng những lời lẽ nặng
nề. Khi mới vàoNam, ông Lê Đức Thọ là cấp trên và ông cũng có ý định thay thế
Lê Duẩn giữ chức bí thư Xứ ủy. Tuy nhiên, ông Lê Đức Thọ sau đó đã chủ động xin
ở lại làm phó cho Lê Duẩn.
[4] Nguyễn Văn Vịnh (1918-1978) đã từng
là Trưởng phái đoàn Quân đội Nhân dân Việt Nam bên cạnh Ủy ban Quốc tế thi hành
hiệp định Geneve tại Sài Gòn, Chủ nhiệm Tổng cục Cán bộ - Bộ Quốc phòng - Tổng
Tư lệnh, Chủ nhiệm Ủy ban Thống nhất Trung ương, Ủy viên Dự khuyết Ban Chấp
hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa III.
Giữa năm 1967, ông được Trung ương cử bí
mật vào Nam, thay tướng Nguyễn Chí Thanh vừa mất trước đó 10 ngày, để phổ biến
kế hoạch tấn công Tết Mậu Thân. Năm 1969, do liên can đến việc bảo vệ một số
người trong Vụ án Xét lại Chống Đảng, ông bị kỷ luật và buộc thôi giữ các chức
vụ, bị hạ quân hàm xuống Thiếu tướng. Ngày 27/1/1972, Ban Chấp hành Trung ương
mới ra nghị quyết tước quân hàm trung tướng của ông Nguyễn Văn Vịnh.
Ngày 13/10/1977, sau khi phục hồi đảng
tịch và giữ quân hàm thiếu tướng cho Tướng Vịnh, Quyết định số 255 do chính Lê
Đức Thọ ký, viết: “Đồng chí Nguyễn Văn Vịnh biết Đặng Kim Giang là phần tử xấu
có quan điểm chống lại Nghị quyết 9 của Đảng vẫn quan hệ trao đổi một số quan
điểm sai trái về đường lối chống Mỹ, tiết lộ những tin tức cơ mật về quân sự,
chính trị với Giang. Giang đã sử dụng những tin ấy để hoạt động chống Đảng và
cung cấp cho người nước ngoài. Nhưng tác hại không lớn. Đồng chí Vịnh không có
quan hệ về tổ chức và hành động với nhóm chống Đảng của Đặng Kim Giang và không
biết Giang hoạt động chống Đảng có tổ chức như sai lầm của 3 ủy viên Trung
ương: Ung Văn Khiêm, Lê Liêm, Bùi Công Trừng”.
[5] Đặng Kim Giang (1910-1983) là một
trong bốn chỉ huy quan trọng nhất của chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954, với
vai trò chủ nhiệm cung cấp của mặt trận, ông đã đảm bảo cung cấp mỗi ngày năm
mươi tấn gạo cho chiến dịch. Năm 1958, ông được phong quân hàm thiếu tướng. Năm
1962, ông ra làm thứ trưởng Bộ Nông trường.
Năm 1967, ông là một trong những nhân
vật chính trong Vụ án Xét lại Chống Đảng. Ông bị chính quyền Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà bí mật bắt giam 7 năm tại nhà tù Hỏa Lò Hà Nội và quản thúc 7 năm sau
đó tại xã Việt Đoàn, huyện Tiên Sơn, tỉnh Hà Bắc (nay là huyện Tiên Du tỉnh Bắc
Ninh).
Năm 1980 ông trở về Hà Nội, sống trong
ngôi nhà cũ rộng 14 mét vuông tại số 30 ngõ Chùa Liên Phái thuộc quận Hai Bà
Trưng. Mười người, vợ chồng, con cái, cháu nội, cháu ngoại sống trong ngôi nhà
đó hơn 10 năm trời. Ông mất ngày 16/5/1983. An táng tại Nghĩa trang Văn Điển,
Hà Nội.
***
Đọc “Bên Thắng Cuộc”
(2)
Con số & góc khuất
Huy Đức có đủ “dũng khí” để trở về Việt
Nam sau khi học bổng Nieman Fellowship tại Đại học Havard (Boston) chấm dứt vào
năm 2013? Câu trả lời hãy còn bỏ ngỏ.
Cuộc hành trình hồi hương với tác phẩm
Bên Thắng Cuộc, nếu xảy ra, sẽ là cuộc đối đầu đầy gian nan và nhiều phức tạp
trong tình hình tại Việt Nam ngày càng nhiều phiên tòa xử những vụ án có liên
quan đến chính trị và các blogger tự do.
Quảng cáo đặt mua trước sách ‘Bên Thắng
Cuộc’
của Báo Người Việt tại Mỹ với giá 20 đô-la
Bên Thắng Cuộc đã cung cấp rất nhiều
thông tin trong một khoảng thời gian dài, từ 1975 cho đến nay, ngoài ra còn có
những tư liệu thuộc loại “thâm cung bí sử” trong suốt cuộc chiến vừa qua. Đó là
thế mạnh của cuốn sách nhưng cũng lại là thế “kẹt” của Huy Đức đối với chính
quyền Việt Nam. Thế cho nên, trở về nước đòi hỏi dũng khí của tác giả.
Tùy theo cách nhìn và góc độ nhìn, những
tài liệu có liên quan trong sách có thể bị coi như những hành vi “tiết lộ bí
mật an ninh quốc gia”, “bôi xấu lãnh đạo Đảng và Nhà nước”, “xuyên tạc sự thật
lịch sử”… thậm chí còn là “vi phạm các quy định về xuất bản và phát hành sách…”
[1].
Đó mới chỉ là những dự đoán những gì sẽ
xảy ra khi Huy Đức trở về Việt Nam. Và nếu trở về, Huy Đức sẽ có tên bên cạnh
“những tác giả sống tại Việt Nam” có sách xuất bản tại hải ngoại như nhạc sĩ Tô
Hải (một nhạc sĩ có công với cách mạng từ thời kháng chiến) với tác phẩm Hồi ký
của một thằng hèn [2].
Cảm giác chung khi đọc Bên Thắng Cuộc
người đọc bị “choáng ngợp”, có khi thậm chí còn bị “bội thực” về nguồn tư liệu
tác giả cung cấp. Con số thống kê là một trong những yếu tố quan trọng trong
chứng liệu về lịch sử. Con số tuy khô khan nhưng hoàn toàn không biết nói dối,
chỉ trừ khi người sử dụng nó có thâm ý đánh lừa người đọc. Mặt khác, số liệu
nói lên rất nhiều và còn nói nhiều hơn chữ viết.
Những con số thống kê được Bên Thắng
Cuộc trích dẫn đa số đều có dẫn nguồn, tuy nhiên, người đọc có quyền thắc mắc
về sự chính xác và trung thực của nguồn dẫn. Ngoài ra, con số nếu được đi kèm
hình ảnh sẽ tăng tính thuyết phục. Đáng tiếc là điều này Bên Thắng Cuộc không
có.
Cover photo trên Facebook Osin Huy Đức:
Tác giả có cô đơn tại Hoa Kỳ?
Trong Chương I, Bên Thắng Cuộc trình bày
những diễn biến quân sự và chính trị trong giai đoạn kết thúc cuộc chiến và
những gì xảy ra trong dinh Độc Lập trong ngày 30/4/1075. Người đọc lần lượt
theo dõi sự việc qua các tiểu mục Đi từ bưng biền, trận đánh Xuân Lộc, Trại
Davis trong phi trường Tân Sơn Nhất… với những nhân vật có liên quan như Tướng
Big Minh, tướng về hưu Nguyễn Hữu Hạnh đến những trường hợp tuẫn tiết của các
tướng lãnh quân đội VNCH.
Đây là những đề tài đã được rất nhiều
tác giả khai thác, cả từ “bên thắng cuộc” cũng như “bên thua cuộc” [3]. Điểm
đặc biệt, qua Bên Thắng Cuộc, tác giả Huy Đức, vốn là một nhà báo của chế độ
mới nên có thuận lợi trong việc tiếp cận các nhân vật có liên quan đến bên
thắng cuộc, họ cung cấp nhiều tài liệu thuộc loại báo chí gọi là “độc quyền”
(exclusive) cho cuốn sách.
Nổi bật hơn cả là phụ lục Sự thật lịch
sử về tăng 390 và tăng 384. Huy Đức viết, “Trong suốt hơn hai mươi năm kể từ
ngày 30-4-1975, truyền thông trong nước đã mặc nhiên thừa nhận chiếc xe 843 của
Bùi Quang Thận đã húc đổ cổng Dinh trong khi sự thật chính là xe 390”.
…
Trung tá Bùi Văn Tùng, chính ủy Lữ đoàn
xe tăng 203, kể lại: “Sau khi biết Thận là người cắm cờ, báo chí vây lấy cậu
ấy. Chắc thằng Thận không nói, nhưng các nhà báo suy ra Thận cắm cờ thì 843 của
Thận phải là xe vào trước. Khi về tới Long Bình, anh em đã báo cáo lên, xe 390
húc đổ cổng Dinh, nhưng khi nghe báo nói xe 843 anh em cũng cho qua. Về sau, do
vụ “ai cắm cờ” đã khá bầm dập nên nhiều người nghĩ, cải chính làm chi cho phức
tạp. Sau đó, Việt Nam lại xung đột với Trung Quốc mà chiếc 390 là T59, viện trợ
của Trung Quốc, trong khi chiếc 843, T54, viện trợ của Liên Xô nên càng không
ai nghĩ tới việc làm rõ sự kiện này”.
Đấy là tài liệu thuộc loại “thâm cung bí
sử” nói lên tính cách dễ dãi của chính quyền thời ấy khi họ lý luận “cải chính
làm chi cho phức tạp”. Hơn nữa, qua cuộc chiến Việt Nam – Trung Quốc năm 1979,
người ta “thích” để xe tăng T54 của Liên Xô đâm vào cổng dinh Độc Lập hơn là
chiếc tăng 390 do Trung Quốc viện Trợ [4].
Sau những "hiểu lầm" trong
lịch sử, chiếc xe đầu tiên húc đổ cánh cổng dinh Độc Lập vào ngày 30/4/1975 đã
được xác nhận là chiếc xe tăng mang số hiệu 390. Hai trong số bốn chiến sĩ tham
gia chiến đấu trên chiếc xe tăng 390 đã kiến nghị về việc xét tặng giải thưởng cho
tác phẩm, vì cho rằng bức ảnh của tác giả Trần Mai Hưởng không phải là bức ảnh
chụp chiếc xe tăng đầu tiên húc đổ cánh cổng dinh Độc Lập và đây là hình ảnh
được dàn dựng lại.
Mạnh Thường, Phó ban Lý luận phê bình -
Hội Nhệ sĩ Nhiếp ảnh Việt Nam, bày tỏ: “Tác phẩm Xe tăng đánh chiếm dinh Độc
Lập của tác giả Trần Mai Hưởng không phải là bức ảnh chụp chiếc xe tăng 390 đầu
tiên húc đổ cánh cổng dinh. Hơn nữa, đây là một bức ảnh không trung thực, không
chụp hình ảnh thật lúc đó mà chụp hình ảnh được dựng lại để quay phim. Vì thế
tác phẩm không có ý nghĩa, không xứng đáng với giải thưởng”.
Bên Thắng Cuộc cung cấp thêm chi tiết:
“Những thước phim, những bức ảnh “húc đổ cổng Dinh Độc Lập” được phục dựng đã
thế chỗ sự thật và số phận của những người được nói đến thật cách biệt với
những người im lặng. Bùi Quang Thận sau ngày 30/4 được điều về Bộ chỉ huy, còn
Thiếu úy Lê Văn Phượng và ê-kíp xe 390 được điều lên biên giới Tây Ninh, chuẩn
bị cho cuộc chiến ở Campuchia, rồi tháng 3-1979 lại được điều ra tham gia cuộc
chiến tranh phía Bắc. Ba người trên chiếc xe tăng 390 xuất ngũ năm 1981, một
người, Lê Văn Phượng, xuất ngũ năm 1986. Kể từ đó, bốn anh em không có điều
kiện gặp nhau”.
Xe tăng 390 húc đổ cổng dinh Độc Lập
(Ảnh được xét duyệt Giải thưởng Hồ Chí
Minh của Trần Mai Hưởng)
Chúng tôi sẽ dẫn một số đoạn tác giả Bên
Thắng Cuộc sử dụng những con số thống kê để tăng cường tính thuyết phục, nhưng
cũng xin nhắc lại, không thể xác minh được số liệu trích dẫn. ỞChương II: Cải
tạo – Phần 1 – Những ngày đầu, cuốn sách đưa ra những con số về đảng viên đảng
Cộng sản Việt Nam, những con số này không rõ trích từ nguồn nào nên người đọc
có thể đặt ra nghi vấn:
“Trước 30-4-1975, tại Sài Gòn có 735
đảng viên tại chỗ. Trung ương Cục bổ sung thêm 2.820 cán bộ đảng viên từ trong
các cơ quan của R về. Nhưng đến cuối tháng 5-1975, số đảng viên đã nhanh chóng
tăng lên đến 6.553 người”.
Theo Wikipedia, trong Đại hội Đại biểu
Toàn quốc lần thứ 4 (tổ chức vào tháng 12/1976 tại Hà Nội, nột năm sau biến cố
1975) số đảng viên trên toàn quốc là 1.550.000 người và đến Đại hội lần thứ 11
(tháng 1/2011) lên đến 3.600.000 đảng viên [5].
Tôi nghĩ, số người tăng vọt trong hàng
ngũ của đảng viên không loại trừ những thành phần tham gia vì mục đích tiến
thân chứ không hẳn vì lập trường chính trị. Con số 3,6 triệu đảng viên năm 2011
so với dân số Việt Nam gần 90 triệu, chỉ chiếm tỷ lệ khoảng 4%.
Những biến cố bi thương tại miền Nam sau
1975 bao gồm học tập cải tạo, đánh tư sản, đổi tiền, đốt sách, cải tạo công
thương nghiệp, kinh tế mới… đã dẫn đến việc hàng triệu người Việt Nam phải bỏ
nước ra đi. Điều gì đã khiến người miền Nam phải “vượt biên” đã được lý giải
phần nào trong Bên Thắng Cuộc. Nhiều tác giả cũng đã viết về những bi kịch này
nhưng có lẽ Bên Thắng Cuộc là một kho tư liệu phong phú nhất với cái nhìn từ
bên thắng cuộc. Tôi gọi giai đoạn này là Thời Điêu Linh [6].
Chương II nói về chính sách cải tạo áp
dụng với “Ngụy quân” và “Ngụy quyền”
cũng là trường hợp số liệu không dẫn nguồn về số người thuộc chế độ cũ
trình diện theo thông cáo của chính quyền mới: “Ở Sài Gòn, 443.360 người ra
trình diện, trong đó có hai mươi tám viên tướng, 362 đại tá, 1.806 trung tá,
3.978 thiếu tá, 39.304 sỹ quan cấp uý, 35.564 cảnh sát, 1.932 nhân viên tình
báo các loại, 1.469 viên chức cao cấp trong chính quyền, 9.306 người trong các
đảng phái được cách mạng coi là “phản động”. Chỉ 4.162 người phải truy bắt
trong đó có một viên tướng và 281 sỹ quan cấp tá.”
Bên Thắng Cuộc tiết lộ một chứng liệu
rất quý giá về Chỉ thị 218/CT-TW của Ban Bí thư ngày 18/4/1975 mà hầu như nhiều
người chưa từng biết đến: “Đối với sỹ quan, tất cả đều phải tập trung giam giữ
quản lý, giáo dục và lao động; sau này tùy sự tiến bộ của từng tên sẽ phân loại
và sẽ có chính sách giải quyết cụ thể. Những người có chuyên môn kỹ thuật [kể
cả lính và sỹ quan] mà ta cần thì có thể dùng vào từng việc trong một thời gian
nhất định, nhưng phải cảnh giác và phải quản lý chặt chẽ, sau này tuỳ theo yêu
cầu của ta và tuỳ theo sự tiến bộ của từng người mà có thể tuyển dụng vào làm ở
các ngành ngoài quân đội. Đối với những phần tử ác ôn, tình báo an ninh quân
đội, sỹ quan tâm lý, bình định chiêu hồi, đầu sỏ đảng phái phản động trong quân
đội, thì bất kể là lính, hạ sỹ quan hay sỹ quan đều phải tập trung cải tạo dài
hạn, giam giữ riêng ở nơi an toàn và quản lý chặt chẽ”.
Đoạn trích dẫn nêu trên có thể được coi
như một “góc khuất” trong lịch sử qua đó người đọc hiểu rõ hơn chính sách của
chính quyền mới trong một Chỉ thị với giọng văn hằn học và miệt thị công chức,
quân nhân VNCH. Người ta cũng thấy dân miền Nam quá ngây thơ khi tin tưởng vào
những thông báo đại loại như “Phải mang giấy bút, quần áo, mùng màn, các vật
dụng cá nhân, lương thực, thực phẩm [bằng tiền hoặc hiện vật] đủ dùng trong
mười ngày kể từ ngày đến tập trung” hoặc sỹ quan cấp tướng được yêu cầu mang
theo thực phẩm, lương thực “đủ dùng trong một tháng”.
Huy Đức viết: “Ngay trong phòng làm việc
của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, Trung ương Cục đã bàn cách đưa các sỹ quan của
ông đi “cải tạo lâu dài”. Kế hoạch được gọi là Chiến dịch X-1. Ông Võ Văn Kiệt
thừa nhận: Việc công bố ba mức thời gian học tập – hạ sỹ quan binh lính, ba
ngày; cấp úy, mười ngày; tướng, tá, một tháng – là có ý để cho các đối tượng
ngầm hiểu rằng, thời gian học tập tối đa của các sỹ quan chỉ là một tháng”.
Huy Đức
Trong Chương II: Cải tạo – Phần 3 – Đoàn
tụ, Phản động, Trung ương Cục nhóm họp để triển khai “Chiến dịch X-1, X-2”,
được quan tâm đặc biệt vì liên quan đến an ninh chính trị những ngày đầu sau
khi Sài Gòn thất thủ. Báo cáo ngày 2/9/1975 như sau:
“Bọn chánh quyền cơ sở đi tập trung rất
ít. Bọn Tuyên úy cũng đi rất ít. Cảnh sát đặc biệt, dự kiến đi 1.500, nhưng
chúng tập trung đến 2.460 tên. Nhưng, dự kiến trên 1.000 tuyên úy chỉ đi 2 tên;
dự kiến trên 150 tên chiến tranh tâm lý, đi 46 tên; dự kiến 500 cảnh sát đã
chiến chỉ đi 190 tên; Quân cảnh đi 140 tên; Tình báo dự kiến 1000 chỉ đi 142
tên; Biệt kích 1000 chỉ đi 64 tên; Chiêu hồi dự kiến 300 chỉ đi 130 tên; Bình
Định dự kiến 1500 chỉ đi 55 tên; Dự kiến đợt I, (đối tượng này) là 10.200 nhưng
chỉ đi 4.800 tên; còn lại tên 5000; ta tổ chức bắt trên 400 tên; bọn cơ sở,
tình báo, quân báo tại chỗ dự kiến 3 vạn mới làm được 8.290 tên…”
Theo chú thích số [67] ở trên, đó là
Biên bản giao ban Trung ương Cục ngày 3-9-1975, không có sự thống nhất giữa
“ngày 2” ghi trong sách và “ngày 3” ghi trong chú thích. Người đọc, nhất là
những người thuộc “bên thua cuộc”, cũng không khỏi ngỡ ngàng vì lối hành văn
của báo cáo với những từ ngữ như “bọn”, “tên”, “chúng”… đầy tính cách hận thù.
Thật đúng là Thời Điêu Linh đối với
người thuộc “bên thua cuộc”. Trong khi quân nhân, công chức bị gom hết trong
trại cải tạo thì những người dân thường bên ngoài đời phải trải qua những chiến
dịch mang những danh xưng mỹ miều. Đoạn trích từ Những Sự Kiện Lịch Sử Đảng Bộ
Thành Phố Hồ Chí Minh (Cuốn I, 1975-1985, trang 20), về diễn biến của “Chiến
dịch X-2” như sau:
“Ta đã huy động hơn một vạn nhân lực,
kết hợp giữa lực lượng an ninh, quân sự, kinh tài, tuyên huấn và đội ngũ cán bộ
dân chính đảng, thành lập 7 đoàn, 60 đội và 10 ngàn công nhân lao động, học
sinh, sinh viên trực tiếp tham gia đánh vào mục tiêu đã định. Ta đã bắt được
các đối tượng chủ yếu, chiếm lĩnh các cơ sở xí nghiệp, kho tàng. Chỉ trong hai
ngày 10 và 11-9-1975, ta đã huy động hơn 70 vạn quần chúng nội, ngoại thành, cả
người Việt lẫn người Hoa, từ tầng lớp quần chúng cơ bản đến tiểu thương, tiểu
chủ và tư sản dân tộc, tổ chức mít- tin, biểu tình, sôi nổi lên án và yêu cầu
trừng trị bọn tư sản mại bản lũng đoạn, đầu cơ, tích trữ…”.
Chính quyền mới tấn công ồ ạt trên nhiều
“mặt trận”. Về xe cộ tại miền Nam và Sài Gòn, Bên Thắng Cuộc đưa ra những con
số như sau:“Tính đến cuối năm 1974, ở miền Nam Việt Nam có 258.514 xe, gồm:
35.384 xe vận tải nặng; 64.229 xe du lịch; còn các xe máy dầu, xe gắn máy 2-3
bánh thì không tính hết vì chính quyền miền Nam không buộc các xe dưới 49cc
phải đăng ký. Chỉ riêng Sài Gòn năm 1974 đã có 599.215 xe gắn máy, 3.025 xe
taxi, 1.270 xích lô máy, 5.348 xích lô đạp. Tổng số xe công của các cơ quan và
các đoàn ngoại giao có trên toàn miền Nam đến năm 1974 là 973.624 xe” (Chú
thích [350] nhưng không dẫn nguồn).
Trong chú thích [151] tác giả xác định
được trích từ Lịch sử Giao thông Vận tải Việt Nam (Nhà Xuất bản Giao thông Vận
tải, 2005, trang 606-607): “Trưng mua và mua, trưng thu và tịch thu 1.202 xe ô
tô các loại; 58 tàu thuyền đường sông, gồm tàu chở hàng, tàu chở khách và tàu
kéo - số phương tiện vận tải này chủ yếu thuộc người dân Sài Gòn và các tỉnh
Hậu Giang, Kiên Giang…; Tịch thu ba tàu biển, trưng mua 14 chiếc; Quốc hữu hóa
hai đoàn hoa tiêu; Cho phép một số công ty xây dựng tư nhân, các nhà thầu chịu
cải tạo và chịu sự điều hành của nhà nước; Trưng mua tài sản của một số công ty
như: Công ty Huỳnh Như Hoa, các cổ phần trong Công ty Nguyễn Văn Tấn, Công ty
Lodisbagco; Tổ chức công ty hợp doanh đối với Công ty Vinameco, Trần Dương và
Trần Văn On
…
Tính đến khi hoàn thành “công cuộc cải
tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam”, chính quyền đã: “Trưng mua, trưng thu được
3.287 xe ô tô loại 5T và 40 ghế hành khách trở lên, hợp với các đoàn xe từ khu
giải phóng, xe ngoài Bắc vào là 1.105 chiếc, tổng cộng: 4.393 xe tổ chức thành
14 xí nghiệp quốc doanh… Nhà nước cải tạo và xóa bỏ quyền sở hữu tư nhân về
công cụ sản xuất được 14.059 xe tổ chức thành 45 xí nghiệp công tư hợp doanh
vận tải ô tô… Tổng cộng cả trưng mua, trưng thu, cải tạo được 17.346 xe loại
trọng tải lớn tổ chức thành 59 xí nghiệp vận tải quốc doanh và xí nghiệp vận
tải công tư hợp doanh… Số xe vận tải nhỏ (từ 2,5T và 25 ghế trở xuống) đã được
cải tạo là 28.856 xe, tổ chức thành 281 Hợp tác xã, ở hầu hết các quận, huyện,
thị xã thuộc tỉnh hoặc thành phố…” (Nguồn:Lịch sử Giao thông Vận tải Việt Nam,
Nhà Xuất bản Giao thông Vận tải, 2005, trang 276-277.)..
Trong giai đoạn 1975-1980, chính quyền
đã đưa hơn 832.000 người hồi hương hoặc đi kinh tế mới ở các tỉnh từ miền Tây,
miền Đông Nam Bộ cho tới Tây Nguyên. Có đến 90% số này rời khỏi thành phố trong
giai đoạn 1975-1980, đó cũng là thời gian tư sản bị cải tạo và chính sách sổ
gạo bắt đầu được thắt chặt.
Bằng những quyết định hành chánh ấy, dân
số Sài Gòn đã giảm từ 3.391.000 người năm 1976 xuống còn 3.201.000 người năm
1980. Cho đến cuối thập niên 1990, vẫn còn 24% số người không có “hộ khẩu
thường trú” dù họ vốn là người Sài Gòn-Gia Định. Họ là nạn nhân của chính sách
Kinh Tế Mớitrong giai đoạn 1975-1980.
Để trả lời cho câu hỏi những “chiến lợi
phẩm” từ các chiến dịch sau ngày “giải phóng” đi về đâu, Bên Thắng Cuộc tiết lộ
một số trường hợp điển hình:
“Ở Kiên Giang: Ngoài số 1.413 lạng vàng
và 96.913 đồng ngoại tệ (trong đó có 26.000 đô la) do các đồng chí Hai Cầu, Năm
Thức, Chín Kỳ chủ trương báo Ty Công an đưa qua Thường vụ Tỉnh ủy làm quỹ
riêng, một số đồng chí trong Thường vụ không nhất trí nên đồng chí báo Phòng
Ngân sách Tỉnh ủy, đã đem nộp cho ngân hàng. Một số đồng chí Thường vụ Tỉnh Ủy
Kiên Giang đã lấy 158 lạng vàng đem bán lấy tiền cộng với số tiền của PA2 và
tiền bắt vượt biên, tất cả là 671.921 đồng, đã chi một số còn lại 234.398 đồng
đưa qua xây dựng trụ sở Tỉnh ủy.
Ở Sông Bé: Lấy 185.511 đồng tiền lời
(mua gỗ của lâm nghiệp về xẻ bán cho người Hoa (đóng tàu) đi PA2) để chi cho
Đại hội Đảng bộ Tỉnh, một số còn để ngân sách địa phương.
Ở Hậu Giang: Công an Vũ trang lấy
148.942 đồng, Ty Công an lấy 76.254 đồng thuộc tiền PA2 làm quỹ cho đơn vị, cơ
quan mình.
Minh Hải: Ty công an mua hàng nước ngoài
bán lấy lời 190.715 đồng, bán tôm lời 847.370 đồng, tổng cộng là 1.038.085 đồng
làm quỹ.
Quảng Nam - Đà Nẵng: Ty công an lấy
14.500 đồng; Công an Thành phố Đà Nẵng lấy 53.547 đồng; Huyện Tam Kỳ, 40.000
đồng; Ty thủy sản, 53.399 đồng”…
(Còn tiếp)
Chú thích:
[1] Trong trường của hợp Huy Đức, chính
phủ Việt Nam có thể căn cứ vào những Điều luật và những Chỉ thị dưới đây để đưa
để đưa tác giả Bên Thắng Cuộc ra tòa:
Luật Xuất Bản, Điều 10, Khoản 3: “Tiết
lộ bí mật của Đảng, Nhà nước, bí mật quân sự, an ninh, kinh tế, bí mật đời tư
của cá nhân và bí mật khác do pháp luật quy định” và Khoản 4:“Xuyên tạc sự thật
lịch sử; phủ nhận thành tựu cách mạng; xúc phạm dân tộc, vĩ nhân, anh hùng dân
tộc; vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự và nhân phẩm của
cá nhân”;
Bộ luật Hình sự, Điều 271, về “Tội vi
phạm các quy định về xuất bản, phát hành sách, báo, đĩa âm thanh, băng âm
thanh, đĩa hình, băng hình hoặc các ấn phẩm khác”.
Chỉ thị 25-CT/TW ngày 25/12/1997 của Bộ
Chính trị về việc “Nói và viết những vấn đề liên quan đến lịch sử và các đồng
chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước”;
Chỉ thị 48-CT/TW ngày 14/2/2005 của Bộ
Chính trị về “Bảo vệ bí mật của Đảng trong phát ngôn và sử dụng bảo quản thông
tin, tài liệu trong tình hình mới”.
[2] Hồi ký của một thằng hèn (nhà xuất
bản Tiếng Quê Hương, phát hành tháng 5, 2009): Trong Đôi điều phi lộ viết sau
cùng, nhạc sĩ Tô Hải viết:
“Tập ‘Hồi ký’ này tôi đã viết xong từ
năm 2000, nhưng do... hèn, tôi đã không dám cho nó ra mắt bạn đọc. Vâng, do...
hèn, chứ chẳng phải do cái gì khác, tôi đã giấu nó đi, lại còn cẩn thận ghi
thêm một dòng ở ngoài bìa “Để xuất bản vào năm 2010”. Như một lời di chúc dặn
vợ con, khi tôi đã... chết!”
Tới năm 2003, mang bản thảo ra đọc lại,
thấy ngòi bút của mình sao vẫn còn rụt rè, vẫn còn lấp lửng. Mới biết mình vẫn
còn chưa hết sợ sức mạnh tàn bạo của nền “chuyên chính vô sản” mà mình từng nếm
trải. Nhất là sợ rồi đây vợ con mình sẽ phải chịu đựng những đòn thù bẩn thỉu
của bầy dã thú đội lốt người, nếu chẳng may những gì mình viết ra rơi vào tay
chúng.
Tôi thấy mình cần phải sửa lại cuốn sách
- từ cách viết, từ cái nhìn chưa đủ tinh tường về những sự kiện lịch sử - và
viết thêm về những con người cần được nhắc tới, mỗi người là một mảnh gương
nhỏ, nhưng gộp lại người đọc có thể thấy hình ảnh một thời đại. Và viết thêm
một chương “TÔI ĐÃ HẾT HÈN”!
…
“Tại sao lại phải công bố trên Internet?
Bởi vì không thể trông chờ sự xuất hiện
của một nhà xuất bản tư nhân nhờ “ơn trên” nào đó sẽ ra đời trong một cuộc đổi
mới giả hiệu, và tập hồi ký này sẽ được in. Trong cái quái thai “kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”, nhưng vẫn độc tài với tự do tư tưởng,
với nhân quyền tối thiểu, chuyện đó quyết không thể xảy ra”.
Tham khảo Hồi ký của một thằng hèn trên
Việt Nam Thư quán:
Hồi ký của một thằng hèn
[3] Đọc thêm các bài viết của Nguyễn
Ngọc Chính trên Blogspot về ngày 30/4/1975:
[4] Về xe tăng 843 hay 390, đọc thêm bài
LẠI CÃI NHAU VỀ BỨC ẢNH XE TĂNG HÚC ĐỔ CỔNG DINH ĐỘC LẬP:
[5] Theo nguồn Wikipedia, số đảng viên
Đảng Cộng sản Việt Nam qua các kỳ Đai hội Đại biểu Toàn quốc như sau:
Đại hội Đại biểu toàn quốc
Thời gian
Địa điểm
Số đại biểu
Số đảng viên
Sự kiện
Lần thứ 1
27 đến 31
tháng 3/1935
Ma Cao
13
600
Thực hiện phong trào Cộng sản ở ba xứ
Đông Dương
Lần thứ 2
11 đến 19
tháng 2/1951
Tuyên Quang
158 (53 dự khuyết)
766.349
Đổi tên thành Đảng Lao Động ViệtNam
Lần thứ 3
05 đến 12
tháng 9/1960
Hà Nội
525 (51 dự khuyết)
500.000
Xây dựng CNXH ở miền Bắc, tiến hành cách
mạng miền Nam
Lần thứ 4
14 đến 20
tháng 12/1976
Hà Nội
1008
1.550.000
Đại hội đầu tiên sau thống nhất, lấy lại
tên là đảng Cộng sản VN
Lần thứ 5
27 đến 31
tháng 3/1982
Hà Nội
1033
1.727.000
Giữ gìn và bảo vệ tổ quốc trước tình
trạng chiến tranh cục bộ
Lần thứ 6
15 đến 18
tháng 12/1986
Hà Nội
1129
~1.900.000
Khởi xướng chính sách đổi mới
Lần thứ 7
24 đến 27
tháng 6/1991
Hà Nội
1176
2.155.022
Giữ gìn và bảo vệ tổ quốc, tiếp tục phát
huy kinh tế và đẩy mạnh mở cửa quan hệ ngoại giao về mọi mặt trong chính trị -
xã hội
Lần thứ 8
28 đến 01
tháng 7/1996
Hà Nội
1198
2.130.000
Tổng kết các hoạt động Cộng Sản vào thế
kỉ 20, xây dựng chủ trương của Đảng vào thế kỉ 21
Lần thứ 9
19 đến 22
tháng 4/2001
Hà Nội
1168
2.479.719
Thay đổi chính sách kinh tế 10 năm, bắt
đầu giai đoạn đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển vào năm 2010
Lần thứ 10
18 đến 25
tháng 4/2006
Hà Nội
1176
~3.100.000
Thay đổi chính sách kinh tế 10 năm lần
2, đưa đất nước ra khỏi kém phát triển và phấn đấu đến năm 2020 xây dựng đất
nước thành nước công nghiệp hóa
Lần thứ 11
12 đến 19
tháng 1/2011
Hà Nội
1377
~3.600.000
Phấn đấu đến năm 2020 đưa đất nước cơ
bản là nước công nghiệp theo hướng hiện đại
[6] Đọc thêm những bài viết của Nguyễn
Ngọc Chính trên Blogspot về Thời Điêu Linh:
Góp nhặt buồn vui thời cải tạo
http://chinhhoiuc.blogspot.com/2012/09/gop-nhat-buon-vui-thoi-cai-tao.html
Góp nhặt buồn vui thời điêu linh: Đổi
tiền
http://chinhhoiuc.blogspot.com/2012/09/gop-nhat-buon-vui-thoi-ieu-linh-oi-tien.html
Góp nhặt buồn vui thời điêu linh: Chợ
trời
http://chinhhoiuc.blogspot.com/2012/09/gop-nhat-buon-vui-thoi-ieu-linh-cho-troi.html
Góp nhặt buồn vui thời điêu linh: Đốt
sách
http://chinhhoiuc.blogspot.com/2012/09/gop-nhat-buon-vui-thoi-ieu-linh-ot-sach.html
Góp nhặt buồn vui thời điêu linh: Bao
cấp
http://chinhhoiuc.blogspot.com/2012/09/gop-nhat-buon-vui-thoi-ieu-linh-bao-cap.html
Buồn vui thời điêu linh: Kinh tế mới
http://chinhhoiuc.blogspot.com/2012/09/buon-vui-thoi-ieu-linh-kinh-te-moi.html
Góp nhặt buồn vui thời điêu linh: Cải
tạo Công thương nghiệp
http://chinhhoiuc.blogspot.com/2012/09/gop-nhat-buon-vui-thoi-ieu-linh-cai-tao.html
***
Bên Thắng Cuộc/Quyền bính
(3):
Lê Khả
Phiêu & Bill Clinton
(Tiếp theo)
Sen tàn cúc lại nở hoa
Sầu dài ngày ngắn, đông đà sang xuân
Hai câu Kiều của Nguyễn Du chắc hẳn một
số người Việt Nam cũng không biết đến. Thế nhưng, câu thơ đó đã được Tổng thống
Bill Clinton trích dẫn trong bài phát biểu tại bữa tiệc chiêu đãi quốc khách
của Chủ tịch nước Trần Đức Lương nhân chuyến thăm chính thức Việt Nam từ ngày
17 đến 19/11/2000 [1].
Tổng thống Bill Clinton
Theo tôi, quả là một thiếu sót lớn khi
trong cuốn Bên Thắng Cuộc Huy Đức không nói đến những chi tiết bên lề chuyến
viếng thăm lịch sử của ông Clinton, vị Tổng thống thứ 42 của Hoa Kỳ (1993-2001)
tại Hà Nội và Sài Gòn.
Tổng thống Clinton đã thi vị hóa mối
bang giao Hoa Kỳ - Việt Nam qua thơ Kiều, ông ví von: “Những hình ảnh băng giá
của quá khứ đã bắt đầu tan và những phác thảo về nột tương lai ấm áp chung đã
bắt đầu hình thành. Chúng ta hãy cùng nhau tận hưởng mùa xuân mới” [2]
Không chỉ “lẩy” Kiều, bài diễn văn của Clinton
còn khiến cử tọa ngạc nhiên vì sự hiểu biết khá sâu sắc của ông về văn chương
và lịch sử Việt Nam. Ông nhắc đến Nguyễn Trãi như “nhà chính trị người Việt vĩ
đại” (the great Vietnamese statesman) của hơn 500 năm về trước để dẫn ý “sau
những năm chiến tranh, chỉ có cuộc sống là tồn tại” (after so many years of
war, only life remains).
Clinton còn nhắc đến Hồ Xuân Hương nhân
sự kiện cuốn sách Những bài thơ 200 năm tuổi về bà vừa được xuất bản tại Hoa Kỳ
bằng tiếng Anh, tiếng Việt và thậm chí cả bằng nguyên bản chữ Nôm. Ông cũng nói
đến hiện tượng chiếc áo dài truyền thống Việt Nam đã là nguồn cảm hứng cho các
nhà thiết kế thời trang nổi tiếng thế giới như Armani và Calvin Klein.
Tổng thống Clinton bắt tay người dân Hà
Nội
Điều mà hầu hết báo chí quốc tế chú ý
đến cuộc viếng thăm Việt Nam của Tổng thống Clinton là những bài diễn văn của
ông. Trong buổi nói chuyện với các sinh viên Đại học Quốc gia Hà Nội, ngày
17/11/2000, được truyền hình trực tiếp, ông đã mở đầu bằng những lời lẽ thân
mật:
“… I was given a Vietnamese phrase; I am
going to try to say it. If I mess it up, feel free to laugh at me: Xin chào các
bạn!” (Tôi được dạy một câu tiếng Việt, tôi sẽ cố gắng nói câu đó, các bạn cứ
cười thoải mái nếu tôi nói sai: Xin chào các bạn). Quả nhiên sinh viên cười và
vỗ tay. Họ cười có lẽ vì được nghe tiếng Việt lơ lớ của ông nhưng họ vỗ tay vì
cảm thấy hãnh diện khi một vị Tổng thống Hoa Kỳ lần đầu tiên nói tiếng Việt.
Clinton cũng tạo được sự gần gũi với
giới trẻ khi ông nhắc đến Trần Hiếu Ngân, nữ vận động viên Taekwondo, huy
chương bạc Olympic Sydney 2000, và cũng là người Việt Nam đầu tiên đoạt huy
chương tại Thế vận hội. Ông còn nhắc đến các cầu thủ nổi tiếng của Việt Nam: Lê
Huỳnh Đức và Nguyễn Hồng Sơn.
Phải nói tài hùng biện của Bill Clinton
đã chinh phục cảm tình của cử tọa. Lúc thì dí dỏm, khi lại rất nghiêm trang.
Nhắc lại lời của Đại sứ Mỹ tại Việt Nam, Pete Peterson, về chuyện quá khứ và
tương lai của mối bang giao Việt Nam và Hoa Kỳ, ông nói: “We cannot change the
past. What we can change is the future” (Chúng ta không thể thay đổi quá khứ.
Điều mà chúng ta có thể thay đổi là tương lai).
Tạp chí Newsweek, ngày 27/11/2000, bình
luận: “Getting over the past and making history seem to be the two things on
Clinton’s agenda these days” (Vượt qua quá khứ và tạo nên lịch sử là hai điều
trong chương trình hành động của ông Clinton trong thời gian này).
Newsweek ám chỉ thời gian ngắn ngủi
trước khi nhiệm kỳ của ông Clinton chấm dứt vào năm 2001 mà tiếng Anh gọi là
thời kỳ “lame duck” (vịt què). Nội các “vịt què” (lame-duck cabinet) của ông sẽ
bàn giao vào ngày 20/01/2001, chỉ hơn 2 tháng sau chuyến thăm Việt Nam.
Gia đình Tổng thống Bill Clinton
Bên Thắng Cuộc (Phần II, Chương 20: Lê
Khả Phiêu và ba ông cố vấn) nói đến cuộc viếng thăm chính thức của Bill Clinton
dưới một cách nhìn khác. Theo Huy Đức, có hai thái độ đón tiếp trái ngược nhau:
trong khi giới lãnh đạo dè dặt, chừng mực trong các nghi lễ tiếp đón thì người
dân Việt lại đón Clintonmột cách thân thiện, cởi mở.
“Bill Clinton và tùy tùng tới sân bay
Nội Bài lúc 11 giờ đêm ngày 16/11/2000. Điều ngạc nhiên là vị tổng thống của
quốc gia mà chính quyền đang coi như kẻ thù lại được hàng ngàn người dân Hà Nội
và các địa phương lân cận đứng chờ trong đêm lạnh dọc hai bên đường cao tốc
Thăng Long - Nội Bài.
Dường như cảm kích trước sự chào đón đó,
Tổng thống Clinton đã bật đèn trong khoang xe của mình để vẫy tay đáp trả người
dân Hà Nội. Dân chúng cũng đã chen chúc đến khu Văn Miếu để nhìn thấy Bill
Clinton. Hai hôm sau, khi rời Hà Nội đến Sài Gòn cũng vào lúc mười một giờ đêm,
Bill Clinton lại được người dân đứng chờ và reo hò khi thấy ông xuất hiện từ
sân bay Tân Sơn Nhất.
Trong khi đó, Bộ Chính trị đã phải tính
đến từng nụ cười, cái bắt tay khi đón vợ chồng Tổng thống Mỹ. Thủ tướng Phan
Văn Khải kể, khi tiếp Clinton, ông đã không cười và bàn tay thì chỉ đưa ra nhẹ
mà không nắm lại. Ông Nguyễn Đức Hòa, trợ lý của ông hỏi: “Người ta đã sang tận
đây, tiếc gì anh không nở một nụ cười với họ?”. Ông Khải nói: “Không được đâu
mày ơi, Bộ Chính trị đã thống nhất là không được cười”
Trước đó vào tháng 6/2005, Thủ tướng
Phan Văn Khải trở thành nhà lãnh đạo Cộng sản đầu tiên thăm chính thức
Washington. Chuyến đi của ông Khải gây chú ý đặc biệt và người ta không khỏi
bàn tán khi trước báo giới, ngồi bên cạnh một ông Bush đầy tự tin, ông Khải tỏ
vẻ bối rối, tay cầm tờ giấy để trả lời báo chí.
Ông Khải thừa nhận: “Quan hệ với Mỹ dễ
dàng hơn nhiều so với Trung Quốc. Tôi hội đàm hết sức thoải mái với Tổng thống
G. W. Bush và Bill Clinton trước đây nhưng đúng là tôi ngại báo chí. Chỉ cần
báo chí đưa không đúng một câu nói của mình thì sẽ có vấn đề ngay với Bộ chính
trị. Sang Mỹ nhưng thực ra chúng tôi phải lo đối nội nhiều hơn đối ngoại”
Thủ tướng Phan Văn Khải & Tổng thống
George Bush
(2005)
Cuộc nói chuyện của Clinton với sinh
viên cũng được Bên Thắng Cuộc kể lại theo hướng khác: “Một ngày trước khi Tổng
thống Bill Clinton nói chuyện với sinh viên ở trường Đại học Quốc gia Hà Nội,
Tướng Nguyễn Chí Trung, trợ lý của Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu đã mấy lần xuống
“quán triệt” với Ban Giám đốc các nghi thức, khi nào thì đứng dậy, khi nào vỗ
tay… Thay vì theo kịch bản, sinh viên đã vỗ tay gần như liên tục ở các đoạn
đầu”.
Clinton nói với sinh viên Việt Nam:
“Theo kinh nghiệm của chúng tôi, giới trẻ sẽ có nhiều niềm tin hơn vào tương
lai nếu họ có tiếng nói trong việc định hướng tương lai, trong việc lựa chọn
các nhà lãnh đạo chính phủ của họ và có một chính phủ có trách nhiệm đối với
những người dân mà chính phủ phục vụ”.
Mặc dù nhấn mạnh “chúng tôi không tìm
cách và cũng không thể áp đặt những ý tưởng này”, Bill Cliton giải thích: “Chỉ
có các bạn mới quyết định xem có nên chăng tiếp tục mở cửa thị trường, mở cửa
xã hội của mình và củng cố nền pháp trị. Chỉ có các bạn mới quyết định liên kết
như thế nào giữa tự do cá nhân và nhân quyền trên nền tảng giàu mạnh của bản
sắc quốc gia Việt Nam”.
Diễn văn của Clinton cũng dẫn thêm một
câu chuyện mà ít người biết đến: hơn 200 năm trước, Thomas Jefferson đã cố gắng
để đưa các giống lúa Việt Nam về trồng trong trang trại của ông ởVirginia.
Jefferson là tác giả của Bản Tuyên Ngôn Độc Lập năm 1776 của nước Mỹ. Bản tuyên
ngôn mà Clinton nói là đã “vang vọng trong Bản Tuyên Ngôn Độc Lập 1945” của
Việt Nam.
Bill Clinton cũng nhắc đến bức tường
bằng đá màu đen Vietnam Veterans Memorial tại Washington D.C, nơi ghi tên những
người Mỹ chết trong chiến tranh Việt Nam. Ông nhắc đến điều mà các cựu binh Mỹ
gọi là “mặt sau của bức tường”, đó là “sự hy sinh lớn lao” (staggering
sacrifice) của ba triệu người Việt Nam thuộc hai miền Nam – Bắc.
Vietnam Veterans Memorial tại Washington
D.C
Cuối buổi chiều 18/11/2000, Tổng Bí thư
Lê Khả Phiêu chào đón Tổng thống Bill Clinton bằng một bài phát biểu dài. Sau
lời mở đầu theo thủ tục, ông Lê Khả Phiêu bắt đầu bày tỏ chính kiến của mình:
“Tôi đồng ý với Ngài là chúng ta không
quên quá khứ, không làm lại được quá khứ. Vấn đề quan trọng là hiểu cho đúng
thực chất cái quá khứ ấy. Cụ thể là hiểu cho đúng thực chất cuộc kháng chiến
chống xâm lược mà chúng tôi đã phải tiến hành…
Việt Nam có đem quân đi đánh Hoa Kỳ đâu
mà Hoa Kỳ lại đem quân sang đánh Việt Nam? Cuộc kháng chiến chống xâm lược của
chúng tôi là giành độc lập dân tộc, thống nhất tổ quốc và đưa đất nước đi lên
chủ nghĩa xã hội. Cho nên đối với chúng tôi, quá khứ không phải trang sử đen
tối, đau buồn và bất hạnh”.
Ông Lê Khả Phiêu nói tiếp: “Bà bộ trưởng
Ngoại giao Hoa Kỳ trong một lần gặp tôi có hỏi: chủ nghĩa xã hội có tồn tại
được không? Tôi nói: không những tồn tại mà chủ nghĩa xã hội sẽ tiếp tục phát
triển thắng lợi…
Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với
gần 170 nước, quan hệ thương mại với hơn 150 nước. Đảng chúng tôi có quan hệ
với hơn 180 đảng cộng sản, cánh tả, đảng cầm quyền… Trong quan hệ quốc tế ngày
nay, mọi quốc gia, dân tộc đều cần hợp tác để cùng phát triển. Chúng tôi tôn
trọng sự lựa chọn, cách sống và chế độ chính trị của các dân tộc. Chúng tôi
cũng đòi hỏi các nước tôn trọng chế độ chính trị, sự lựa chọn của dân tộc chúng
tôi”.
Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu kết thúc bài
phát biểu “chào mừng” tổng thống đầu tiên của nước Mỹ đến Văn phòng Trung ương
Đảng: “Chúng tôi quý trọng nhân dân Mỹ, cảm ơn nhân dân Mỹ đã ủng hộ cuộc kháng
chiến chính nghĩa của nhân dân Việt Nam. Thấy hình ảnh cháu Chelsea, tôi chạnh
nhớ cháu Emily [3] con gái của Morrison [4] và mẹ cháu cũng đã từng sang thăm
Việt Nam. Đó là biểu tượng đẹp của tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước”.
Tổng bí thư Lê Khả Phiêu
Phát biểu đáp từ của Bill Clinton được
lược thuật trên báo Nhân Dân ngày 19/11/2000: “Về cuộc chiến tranh ở Việt Nam,
nhiều người ở Hoa Kỳ không nhất trí với nhau về chính sách của Chính phủ Hoa Kỳ
và về bản chất cuộc chiến tranh. Nhiều người, trong đó có Đại sứ Peterson của
chúng tôi, đã tưởng rằng họ sang chiến đấu để giúp cho người Việt Nam được tự
do và tự quyết. Ngày nay, tôi thấy rất thú vị là đã có một nước Việt Nam thống
nhất và tiến bộ”.
Sau này, trong cuốn hồi ký My Life, Bill
Clinton viết: “Lê Khả Phiêu cố gắng sử dụng hành động phản đối chiến tranh Việt
Nam của tôi để cáo buộc những gì Mỹ đã làm là hành vi đế quốc. Tôi đã rất giận
dữ nhất là khi ông ta nói vậy trước sự có mặt của Đại sứ Pete Peterson, một
người đã từng là tù binh chiến tranh.
Tôi nói với nhà lãnh đạo Việt Nam rằng
khi tôi không tán thành các chính sách đối với Việt Nam, những người theo đuổi
nó cũng không phải là đế quốc hay thực dân, mà là những người tốt chiến đấu
chống cộng sản. Tôi chỉ Pete và nói, ông đại sứ không ngồi sáu năm rưỡi trong
nhà tù ‘Hà Nội Hilton’ vì muốn thực dân hóa Việt Nam” [5]
Hồi ký My Life, Bill Clinton
Ông Phan Văn Khải nhớ lại: “Ông Phiêu
nói như thời chiến tranh làm cho họ [người Mỹ] rất khó chịu. Ông ấy muốn tỏ rõ
thái độ của một chính quyền cộng sản. Nhưng, ông Phiêu không hiểu tình hình thế
giới giờ đây đã khác. Phe xã hội chủ nghĩa đã tan rã. Vấn đề là mối quan hệ
giữa hai quốc gia, chúng ta cần Mỹ. Nếu người Mỹ không vào thì những công ty
lớn trên thế giới không có ai vào cả”.
Theo Tổng thống Bill Clinton, giữa ông
và Thủ tướng Phan Văn Khải đã xây dựng được mối quan hệ tốt đẹp trong lần gặp ở
Auckland (New Zealand), khi đó ông Khải cũng nói là ông cảm kích trước việc
Bill Clinton đã từng phản đối chiến tranh Việt Nam. Clinton nhớ lại: “Khi tôi
nói: những người Mỹ phản đối hay ủng hộ cuộc chiến tranh đó đều là người tốt.
Ông Khải nói: tôi hiểu”.
Bill Clinton, Hillary Clinton và con gái
Chelsea
xem biểu diễn nghệ thuật tại Hà Nội
Cũng trong cuốn hồi ký My Life, Clinton
đưa ra nhận xét, dường như những người mà ông gặp ở Việt Nam, chức vụ càng cao
thì ngôn ngữ càng “sặc mùi” cộng sản theo kiểu cũ. Ông mô tả chủ tịch Thành phố
Hồ Chí Minh: “Võ Viết Thanh ăn nói như những thị trưởng năng nổ ở Mỹ mà tôi
biết. Ông khoe về việc cân đối ngân sách, cắt giảm chi tiêu, và nỗ lực lôi kéo
thêm các nhà đầu tư nước ngoài”. Đối với Chủ tịch nước Trần Đức Lương, Bill
Clinton nhận xét: “Chỉ kém giáo điều hơn Lê Khả Phiêu một chút”.
Tác giả Huy Đức cho rằng ông Phiêu có
“lý do đối nội” khi cố tình làm mất lòng Bill Clinton chỉ vì muốn được lòng các
nhân vật khác trong nội bộ Đảng Cộng sản. Nhưng sau này, điều oái ăm đã xảy ra,
chính những người mà ông nghĩ sẽ hài lòng với thái độ cứng rắn trước Tổng thống
Mỹ lại sử dụng điều đó để chống lại ông.
Hillary Clinton và con gái Chelsea với
chiếc nón lá Việt Nam
Vào Sài Gòn, Tổng thống Clinton đã nói
chuyện với cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam tại Cảng Container Quốc tế (Vietnam
International Container Terminals – VICT), một liên doanh giữa Singaporevà Việt
Nam. Ông lên tiếng ca ngợi những tiến bộ tích cực trong công cuộc đổi mới về
kinh tế và xã hội của Việt Nam trong thập niên vừa qua.
Theo Clinton, Hiệp định Thương mại Việt
- Mỹ sẽ tạo điều kiện thu hút các nhà đầu tư đến Việt Namnhiều hơn. Ông tuyên
bố chính phủ Hoa Kỳ sẽ dành một khoản tín dụng 200 triệu đô-la để hỗ trợ các dự
án đầu tư của Mỹ vào Việt Nam.
Nhân dịp này, Clinton cũng đề cao vai
trò của những người Việt tại nước ngoài. Theo ông, họ đầu tư vào Việt Nam không
những bằng tiền bạc mà còn với cả tấm lòng. Nước Mỹ vui mừng khi giúp họ trở về
làm ăn, cũng xin cám ơn chính phủ và nhân dân Việt Nam đã chào đón họ tại quê
nhà [6].
Và có lẽ cũng để ủng hộ việc kinh doanh
của người Mỹ gốc Việt tại Sài Gòn, Tổng thống Bill Clinton, phu nhân Hillary,
con gái Chelsea cùng đoàn tùy tùng đã dùng bữa trưa tại Phở 2000, góc đường Lê
Lai, bên hông chợ Bến Thành. Đây là mạng lưới các tiệm Phở 2000 tại Sài Gòn do
Alain Huỳnh Trung Tấn từ Hoa Kỳ về kinh doanh. Kể từ đó, Phở 2000 có thêm khẩu
hiệu “Phở for the President”.
Bill Clinton chụp hình kỷ niệm với nhân
viên Phở 2000
***
Chú thích:
[1] Hai câu Kiều của Nguyễn Du:
Sen tàn cúc lại nở hoa
Sầu dài ngày ngắn, đông đà sang xuân
đã được chuyển ngữ sang tiếng Anh trong
bài phát biểu của Tống thống Bill Clinton tại Hà Nội như sau:
Just as the lotus wilts, the mums bloom
forth
Time softens grief, and the winter turns
to spring
Chắc chắn những cố vấn người Việt của
Tổng thống Clinton đã phải làm việc tích cực trong việc soạn những bài diễn văn
cho ông. Clinton đã tỏ ra rất am hiểu về lịch sử cũng như văn hóa Việt Nam, ông
rất tự tin khi trình bày những vấn đề này.
[2] Nguyên văn tiếng Anh: “Frozen images
of the past have begun to thaw and outlines of a warmer shared future have
begun to take shape. Let us make the most of this new spring together”.
[3] Emily rất nổi tiếng ở Việt Nam sau
khi bài thơ Ê-mê-ly, Con ơi! của Tố Hữu được đưa vào sách giáo khoa giảng dạy
suốt nhiều thập niên. Bài thơ có những câu như:
Ê mi ly con ơi!
Ê mi-ly, con đi cùng cha
Sau khôn lớn con thuộc đường, khỏi
lạc...
- Đi đâu cha?
- Ra bờ sông Pô-tô-mác
- Xem gì cha?
Không con ơi, chỉ có Lầu ngũ giác.
…
Oa-sinh-tơn
Buổi hoàng hôn
Còn mất?
Đã đến phút lòng ta sáng nhất
Ta đốt thân ta
Cho ngọn lửa chói loà
Sự thật..........
[4] Morrison: Một người Mỹ ở
Pennsylvania, ngày 2/11/1965, bế con gái Emily một tuổi tới trước văn phòng Bộ
trưởng Quốc phòng McNamara rồi tự thiêu để phản đối chiến tranh Việt Nam.
[5] My Life, Bill Clinton, Vintage Books
2005, trang 930.
[6] Nguyên văn: “Overseas Vietnamese
want to invest in your country, not only with their money, but with their
hearts. We are glad to be helping them to return and we thank you, the people
and the government of Vietnam, for welcoming them home”
***
Full text of US President Bill Clinton's
speech in Vietnam
HANOI - The following is the full text
of US President Bill Clinton's speech on Friday at Hanoi National University:
"Thank you very much and good
afternoon. I can think of no more fitting place to begin my visit at this
hopeful moment in our common history than here at Hanoi National University. I
was given a Vietnamese phrase; I am going to try to say it. If I mess it up,
feel free to laugh at me. Xin chao cac ban. (Hello, everybody) So much of the
promise of this youthful nation is embodied with you. I learned that you have
exchanges here with students from nearly 100 universities, from Canada to
France to Korea -- and that you are now hosting more than a dozen full-time
students from your partner school in the United States, the Universityof
California. I salute your vigorous efforts to engage the world. Of course, like
students everywhere, I know you have things to think about other than your
studies. For example, in September, you had to study for your classes and watch
the Olympic accomplishments of Tran Hieu Ngan in Sydney. And this week you have
to study and cheer Le Huynh Duc and Nguyen Hong Son in Bangkok at the football
matches.
I am honored to be the first American
President to see Hanoi, and to visit this university. But I do so conscious
that the histories of our two nations are deeply intertwined in ways that are
both a source of pain for generations that came before, and a source of promise
for generations yet to come. Two centuries ago, during the early days of the
United States, we reached across the seas for partners in trade and one of the
first nations we encountered was Vietnam. In fact, one of our founding fathers,
Thomas Jefferson, tried to obtain rice seed from Vietnam to grow on his farm in
Virginia 200 years ago, By the time World War II arrived, the United States had
become a significant consumer of export from Vietnam. In 1945, at the moment of
your country's birth, the words of Thomas Jefferson were chosen to be echoed in
your own Declaration of Independence: "All men are created equal. The
creator has given us certain inviolable rights, -- the right to life, the right
to be free, the right to achieve happiness." Of course, all of this common
history, 200 years of it, has been obscured in the last few decades by the
conflict we call the Vietnam War and you call the American War. You may know
that in Washington, D.C. on our National Mall, there is a stark black granite
wall engraved with the name of every single American who died in Vietnam. At
this solemn memorial, some American veterans also refer to the "other side
of the wall," the staggering sacrifice of the Vietnamese people on both
sides of that conflict -- more than three million brave soldiers and civilians.
This shared suffering has given our countries a relationship unlike any other.
Because of the conflict, America is now home to one million Americans of
Vietnamese ancestry. Because of the conflict, three million American veterans
served in Vietnam, as did many journalists, embassy personnel, aid workers and
others who are forever connected to your country.
Almost 20 years ago now, a group of
American servicemen took the first step to reestablish contacts between the
United States and Vietnam. They traveled back to Vietnam for the first time
since the war, and as they walked through the streets ofHanoi, they were
approached by Vietnamese citizens who had heard of their visit. Are you the
American soldiers, they asked? Not sure what to expect our veterans answered,
yes we are. And to their immense relief, their hosts simply said, welcome
toVietnam. More veterans followed, including distinguished American veterans
and heroes who serve now in the United States Congress: Senator John McCain,
Senator Bob Kerrey, Senator Chuck Robb and Senator John Kerry from
Massachussettes, who is here with me today along with a number of
representatives from our Congress, some of whom are veterans of theVietnam
conflict. When they came here, they were determined to honor those who fought
without refighting the battle; to remember our history, but not to perpetuate
it; to give young people like you in both our countries the chance to live in
your tomorrows, not in our yesterdays. As Ambassador Pete Peterson has said so
eloquently, "We cannot change the past. What we can change is the
future."
Our new relationship gained strength as
American veterans launched non profit organisations to work on behalf of the
Vietnamese people, such as providing devices to people with war injuries to
help them lead more normal lives. Vietnam's willingness to help us return the
remains of our fallen servicemen to their families has been the biggest boost
to improve ties. And there are many Americans here who have worked in that
endeavor for many years now, including our Secretary of Veterans Affairs,
Hershel Gobar. The desire to be reunited with a lost family member is something
we all understand. It touches the hearts of Americans to know that every Sunday
in Vietnam one of your most-wanted television shows features families seeking
viewers help in finding loved ones they lost in the war so long ago now. And we
are grateful for the Vietnamese villagers who have helped us to find our
missing and, therefore, to give their families the peace of mind that comes
with knowing what actually happened to their loved ones. No two nations have
ever before done the things we are doing together to find the missing from the
Vietnam conflict. Teams of Americans and Vietnamese work together, sometimes in
tight and dangerous places. The Vietnamese government has offered us access to
files and government information to assist our search. And, in turn, we have
been able to give Vietnam almost 400,000 pages of documents that could assist
in your search. On this trip, I have brought with me another 350,000 pages of
documents that I hope will help Vietnamese families find out what happened to
their missing loved ones.
Today, I was honored to present these to
your President, Tran Duc Luong. And I told him before the year is over, America
will provide another million pages of documents. We will continue to offer our
help and to ask for your help as we both honor our commitment to do whatever we
can for as long as it takes to achieve the fullest possible accounting of our
loved ones. Your cooperation in that mission over these last eight years has
made it possible for America to support international lending toVietnam, to
resume trade between our countries, to establish formal diplomatic relations
and, this year, to sign a pivotal trade agreement. Finally, America is coming
to see Vietnam as your people have asked for years -- as a country, not a war.
A country with the highest literacy rate in Southeast Asia; a country whose
young people just won three Gold Medals at the International Math Olympiad in
Seoul; a country of gifted hardworking entrepreneurs emerging from years of
conflict and uncertainty to shape a bright future.
Today, the United States and Vietnam
open a new chapter in our relationship, at a time when people all across the
world trade more, travel more, know more about and talk more with each other
than ever before. Even as people take pride in their national independence, we
know we are becoming more and more interdependent. The movement of people,
money and ideas across borders, frankly breeds suspicion among many good people
in every country. They are worried about globalization because of its
unsettling and unpredictable consequences. Yet globalization is not something
we can hold off or turn off. It is the economic equivalent of a force of nature
-- like wind or water. We can harness wind to fill a sail. We can use water to
generate energy. We can work hard to protect people and property from storms
and floods. But there is no point in denying the existence of wind or water, or
trying to make them go away. The same is true for globalization. We can work to
maximize its benefits and minimize its risks, but we cannot ignore it -- and it
is not going away. In the last decade, as the volume of world trade has
doubled, investment flows from wealthy nations to developing ones have
increased by six times, from 25 billion dollars in 1990 to more than 150
billion dollars in 1998. Nations that have opened their economies to the international
trading system have grown at least twice as fast as nations with closed
economies. Your next job may well depend on foreign trade and investment. Come
to think of it, since I have to leave office in about eight weeks, my next job
may depend on foreign trade and investment.
Over the last 15 years, Vietnam launched
its policy of Doi Moi, joined APEC and ASEAN, normalized relations with the
European Union and the United States, and disbanded collective farming, freeing
farmers to grow what they want and earn the fruits of their own labor. The
results were impressive proof of the power of your markets and the abilities of
your people. You not only conquered malnutrition, you became the world's second
largest exporter of rice and achieved stronger overall economic growth. Of
course, in recent years the rate of growth has slowed and foreign investment
has declined here, showing that any attempt to remain isolated from the risks
of a global economy also guarantees isolation from its rewards, as well. General
Secretary Le Kha Phieu said this summer, and I quote, "We have yet to
achieve the level of development commensurate with the possibilities of our
country. And there is only one way to further open up the economy." So
this summer, in what I believe will be seen as a pivotal step toward your
future prosperity, Vietnam joined the United States in signing an historic
bilateral trade agreement, building a foundation for Vietnam's entry eventually
into the World Trade Organization.
Under the agreement, Vietnam will grant
to its citizens, and over time to citizens of other countries, rights to
import, export and distribute goods, giving the Vietnamese people expanding
rights to determine their own economic destiny. Vietnam has agreed it will
subject important decisions to the rule of law and the international trading
system, increase the flow of information to its people, and accelerate the rise
of a free economy and the private sector. Of course, this will be good for
Vietnam's foreign partners, like the United States. But it will be even better
for Vietnam's own entrepreneurs, who are working hard to build businesses of
their own. Under this agreement, Vietnam could be earning, according to the
World Bank, another 1.5 billion dollars each and every year from exports alone.
Both our nations were born with a
Declaration of Independence. This trade agreement is a form of declaration of
interdependence, a clear, unequivocal statement that prosperity in the 21st
century depends upon a nation's economic engagement in the rest of the world.
This new openness is a great opportunity for you. But it does not guarantee
success. What else should be done? Vietnam is such a young country, with 60
percent of your population under the age of 30, and 1.4 million new people entering
your work force every year. Your leaders realize that government and
state-owned businesses cannot generate 1.4 million new jobs every year. Thy
know that the industries driving the global economy today -- computers,
telecommunications, biotechnology -- these are all based on knowledge. That is
why economies all over the world grow faster when young people stay in school
longer, when women have the same educational opportunities that men have, when
young people like you have every opportunity to explore new ideas and then to
turn those ideas into your own business opportunities.
You can be -- indeed, those of you in
this hall today must be -- the engine of Vietnam's future prosperity. As
President Tran Duc Luong has said, the internal strength of the country is the
intellect and capacity of its people. The United States has great respect for
your intellect and capacity. One of our government's largest educational
exchange programs is with Vietnam. And we want to do more. Senator Kerry is
right there, and I mentioned him earlier -- is leading an effort in our United
States Congress, along with Senator John McCain and other veterans of the
conflict here, to establish a new Vietnam Education Foundation. Once enacted,
the foundation would support 100 fellowships every year, either here or in the
United States, for people to study or teach science, math, technology and
medicine.
We're ready to put more funding in our
exchange programs now so this effort can get underway immediately. I hope some
of you in this room will have a chance to take part. And I want to thank
Senator Kerry for this great idea. Thank you, sir, for what you have done. Let
me say, as important as knowledge is, the benefits of knowledge are necessarily
limited by undue restrictions on its use. We Americans believe the freedom to
explore, to travel. to think, to speak, to shape decisions that affect our
lives enrich the lives of individuals and nations in ways that go far beyond
economics.
Now, America's record is not perfect in
this area. After all, it took us almost a century to banish slavery. It took us
even longer to give women the right to vote. And we are still seeking to live
up to the more perfect union of our founders' dreams and the words of our
Declaration of Independence and Constitution. But along the way over these 226
years -- 224 years -- we've learned some lessons. For example, we have seen
that economics work better where newspapers are free to expose corruption, and
independent courts can ensure that contracts are honored, that competition is
robust and fair, that public officials honor the rule of law.
In our experience, guaranteeing the
right to religious worship and the right to political dissent does not threaten
the stability of a society. Instead it builds people's confidence in the
fairness of our institutions, and it enables us to take it when a decision goes
in a way we don't agree with. All this makes our country stronger in good times
and bad. In our experience, young people are much more likely to have confidence
in their future if they have a say in shaping it, in choosing their
governmental leaders and having a government that is accountable to those it
serves. Now, let me say emphatically, we do not seek to impose these ideals,
nor could we. Vietnam is an ancient and enduring country. You have proved to
the world that you will make your own decisions. Only you can decide, for
example, if you will continue to share Vietnam's talents and ideas with the
world; if you will continue to open Vietnam so that you can enrich it with the
insight of others. Only you can decide if you will continue to open your
markets, open your society and strengthen the rule of law. Only you can decide
how to weave individual liberties and human rights into the rich and strong
fabric of Vietnamese national identity.
Your future should be in your hands, the
hands of the Vietnam people. But your future is important to the rest of us as
well. For as Vietnam succeeds, it will benefit this region and your trading
partners and your friends throughout the world. We are eager to increase our
cooperation with you across the board. We want to continue our work to clear
land mines and unexploded ordnance. We want to strengthen our common efforts to
protect the environment by phasing out leaded gasoline in Vietnam, maintaining
a clean water supply, saving coral reefs and tropical forests. We want to
bolster our efforts on disaster relief and prevention, including our efforts to
help those suffering from the floods in the Mekong delta. Yesterday we presented
to your government satellite imagery from our Global Disaster Information
Network -- images that show in great detail the latest flood levels on the
delta that can help Vietnam to rebuild.
We want to accelerate our cooperation in
science, cooperation focused this month on our meeting in Singapore to study
together the health and ecological effects of dioxin on the people of Vietnam
and the Americans who were in Vietnam; and cooperation that we are advancing
further with the Science and Technology Agreement our two countries signed just
today. We want to be your ally in the fight against killer diseases like AIDS,
tuberculosis and malaria. I am glad to announce that we will nearly double our
support of Vietnam's efforts to contain the AIDS crisis through education,
prevention, care and treatment. We want to work with you to make Vietnam a
safer place by giving you help to reduce preventable injuries -- on the
streets, at home and in the workplace. We want to work with you to make the
most of this trade agreement, by providing technical assistance to assure its
full and smooth implementation, in finding ways to encourage greater United
States investment in your country.
We are, in short, eager to build our
partnership with Vietnam. We believe it's good for both our nations. We believe
the Vietnamese people have the talent to succeed in this new global age as they
have in the past. We know it because we've seen the progress you have made in
this last decade. We have seen the talent and ingenuity of the Vietnamese who
have come to settle in America. Vietnamese-Americans have become elected
officials, judges, leaders in science and in our high-tech industry. Last year,
a Vietnamese-American achieved a mathematical breakthrough that will make it
easier to conduct high-quality video-conferencing. And all America took notice
when Hoang Nhu Tran graduated number one in his class at the United States Air
Force Academy.
Vietnamese-Americans have flourished not
just because of their unique abilities and their good values, but also because
they have had the opportunity to make the most of their abilities and their
values. As your opportunities grow to live, to learn, to express your
creativity, there will be no stopping the people of Vietnam. And you will find,
I am certain, that the American people will be by your side. For in this
interdependent world, we truly do have a stake in your success. Almost 200
years ago, at the beginning of the relations between the United States and
Vietnam, our two nations made many attempts to negotiate a treaty of commerce,
sort of like the trade agreement that we signed today. But 200 years ago, they
all failed, and no treaty was concluded. Listen to what one historian said
about what happened 200 years ago, and think how many times it could have been
said in the two centuries since. He said, "These efforts failed because
two distant cultures were talking past each other, and the importance of each
to the other was insufficient to overcome these barriers."
Let the days when we talk past each
other be gone for good. Let us acknowledge our importance to one another. Let
us continue to help each other heal the wounds of war, not by forgetting the
bravery shown and the tragedy suffered by all sides, but by embracing the
spirit of reconciliation and the courage to build better tomorrows for our
children. May our children learn from us that good people, through respectful
dialogue, can discover and rediscover their common humanity, and that a
painful, painful past can be redeemed in a peaceful and prosperous future.
Thank you for welcoming me and my family
and our American delegation to Vietnam. Thank you for your faith in the future.
Chuc cac ban suc khoe va thanh cong. (May you have health and success)
(Agence France Presse - November 17,
2000)
Các trang nguồn: Đọc “Bên Thắng Cuộc”
|
Thứ Năm, 29 tháng 5, 2014
Đọc “Bên Thắng Cuộc” - Nguyễn Ngọc Chinh
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét