Hà Sỹ Phu
Dắt
tay nhau, đi dưới những tấm biển chỉ đường của trí tuệ
Thử giải bài toán lôgic xã
hội
Mọi nguồn rắc rối bắt
nguồn từ đâu ?
Hà Sỹ Phu là bút hiệu của một trí thức trong nước, một nhà
nghiên cứu khoa học tự nhiên. Bài viết này của ông đã gây tranh luận sôi nổi,
đặc biệt vì nó được viết trước khi xảy ra các biến cố tại Liên xô và Đông âu.
Chúng tôi đăng toàn văn để độc giả có một ý niệm về những suy tư của người trí
thức trong nước, và cũng là để đền bù phần nào sự thiệt thòi của tác giả : bài
của ông chưa hề được đăng trên báo nào trong nước, trong khi những bài đả kích
ông xuất hiện nhan nhản. Chúng tôi cũng sẽ có bài giới thiệu những bài đả kích
- đôi khi có tính cách đe doạ - của các quan chức đảng Cộng sản Việt nam.
Mấy
lời phi lộ
Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách. Nhớ lời dạy ấy của cha
ông, tôi bỗng quên đi sự quá hạn hẹp về hiểu biết của mình mà cả gan làm bàn
chuyện quốc gia đại sự. Nhưng biết đâu nỗi bức xúc này lại chẳng là chung của
nhiều người!
Xin được tiếp cận vấn đề từ góc nhìn của những quy luật lôgic
khoa học, trước hết là khoa học tự nhiên. Bài viết có tính chất gợi mở, cung
cấp một số nhận thức cơ bản để suy nghĩ, chưa giải quyết vấn đề gì cụ thể, trọn
vẹn.
Nếu từ bài viết có thể lọc ra một chút gì đó gọi được là cái hạt
nhân hợp lý thì đối với người viết đã là điều may mắn lắm rồi, nên xin miễn phi
lộ dài dòng về những sai sót khó tránh khỏi. Tuy vậy người viết không thể giấu
niềm hy vọng được người đọc quan tâm hưởng ứng mà chỉ bảo thêm, và cá nhân người
viết xin nhận trách nhiệm trước mọi sự phán xét.
Những điều này nói ra hôm nay là đã quá muộn.
Ngày 2 tháng 9 năm 1988
Tú Xuân Hà Sỹ Phu
Hãy thử để cho trí tuệ
được vài phút tự do, xem nó có thể mách bảo ta điều gì. Sau đó, nếu thấy không
có gì ích lợi thì xin mọi người cứ coi đây như những lời nhảm nhí mà loại nó ra
khỏi bộ nhớ, tưởng cũng chẳng tốn kém là bao. It ra điều đó cũng chứng tỏ rằng
chúng ta đã có sự trao đổi dân chủ thực sự.
Chúng ta hãy cùng nhau
tham gia vào việc giải thử bài toán lôgic lớn của xã hội mà bấy lâu nay cứ ở
trong tình trạng vừa như rất đơn giản vừa như quá thần bí không có lời giải :
Mọi điều rắc rối bắt nguồn từ đâu? Bây giờ ta làm theo cách công khai và dân
chủ. Mọi người hãy tạm thời thoát ly khỏi những nếp suy nghĩ mà ta đang có, kể
cả những tư duy đang được coi là đổi mới, tạm thời thoát ly khỏi những điều
đang gắn chặt với quyền và lợi của ta hàng ngày, để cùng ngồi lên chiếc xe của
tư duy lôgic. Trong thế giới của tư duy thì không có vùng nào là vùng cấm. Mọi
hiện tượng, mọi phạm trù, mọi nhân vật, mọi chủ nghĩa... đều là những dữ kiện
của bài toán, không hơn mà cũng không được kém.
Đi một vòng để quan sát
toàn bộ bức tranh, ta có nhận xét tổng quát rằng hệ thống mà ta đang khảo sát
chứa đựng quá nhiều nghịch lý :
- Hệ thống dân chủ gấp
triệu lần lại vướng mắc chính vấn đề dân chủ.
- Hệ thống tiêu biểu cho
sự thật (có các nhà xuất bản Sự thật, và chúng ta thường nói chỉ chúng ta mới
có đủ dũng cảm nói sự thật) thì đang phải cố chữa cho được bệnh nói dối.
- Hệ thống tiêu biểu cho
triết học duy vật lại là điển hình của bệnh duy ý chí
- Hệ thóng ưu việt (tức là
tốt vượt hẳn lên), tiêu biểu cho sự giải phóng Con người, thì lại không ưu việt
về quyền Con người, luôn bị chỉ trích về quyền Con người :
- Hệ thống tiêu biểu cho
sự đề cao những giá trị tinh thần thì lại xuống cấp những giá trị đạo đức, đang
cần làm lành mạnh trở lại những quan hệ xã hội và gia đình.
- Hệ thống tiêu biểu cho
tính nhân loại, tính tập thể thì lại xuất hiện nhiều ví dụ tệ sùng bái cá nhân,
tập trung quyền lực vào tay một người, lấy một người thay cho tất cả.
- Hệ thống tiêu biểu cho
sức sáng tạo của tri thức (xem định nghĩa của Lênin về chủ nghĩa cộng sản và
người cộng sản)thì vấn đề tri thức lại cứ cộm lên như một hạt nhân của toàn bộ
cái hiện thực cần phải cải tổ.
- Chúng ta vẫn nói sự
thắng thua giữa các chế độ rốt cuộc là ở năng suất lao động. Ta luôn nói về
những thắng lợi to lớn nhưng chính về năng suất lao động thì ta lại thua quá
xa!
- Hệ thống xã hội chủ
nghĩa được mô tả đầy sức sống, còn chủ nghĩa tư bản thì đang giẫy chết. Vậy mà,
trong tất cả những trường hợp quốc gia bị chia cắt làm hai thì dù chia theo
kiểu nào, nửa thuộc phía giẫy chết cũng có năng suất lao động và chất lượng sản
phẩm tốt hơn nửa kia!
Trước thực tế ấy, nhiều luận
điểm đã và đang được chúng ta đưa ra để giải thích. Ví dụ :
- Ta có đường lối đúng đắn
nhưng khi thực hiện thì có sai lầm. Trên thì đúng đắn nhưng cán bộ trung gian
quá yếu. Chủ nghĩa thì đúng đắn nhưng con đường quá mới mẻ nên ta chưa có kinh
nghiệm.
- Đây là khó khăn tạm thời
do chiến tranh để lại, bè lũ Đế Quốc, Thực dân và bọn Bành trướng phải chịu
trách nhiệm về tình hình khó khăn này.
- Do có những cá nhân
không chịu tu dưỡng, rèn luyện nên thoái hoá, biến chất.
- Do chế độ quan liêu bao
cấp. Do thiếu sót về những tư duy cụ thể như tư duy kinh tế, tư duy đối ngoại,
v. v...
Trước một xã hội đầy những
nghịch lý lớn lao đã kể ở trên thì những luận điểm giải thích này dẫu có phản
ảnh được phần nào đấy hiện thực cũng không đủ tầm để bao quát cả một thời kỳ
của lịch sử nhân loại. Nó khác nào như đem dầu xoa, thuốc cảm để chữa ung thư
vậy.
Từ khi có cuộc Cải tổ, Đổi
mới trong phạm vi toàn hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới đến nay, chúng ta đã
làm được một việc là đem bày ra công khai trước mọi người một số tư liệu để
chúng ta nhìn cho đúng chân dung của mình, một chân dung mà tự mình cũng thấy
không thể chấp nhận được. Những hiện tượng tiêu cực rất cần được phơi bày,
nhưng phơi bày mãi cũng không bao giờ hết, và nếu cứ sửa chữa theo kiểu thợ
vườn sai đâu sửa đấy thì chẳng khác nào chơi trò trốn tìm vòng quanh. Điều quan
trọng là những hiện tượng tiêu cực đã nêu cần phải hệ thống hoá lại, tìm mối
liên hệ nhân quả giữa chúng, rồi theo mạch lôgic mà tìm đến nguyên nhân gốc rễ.
Cái mạch lôgic ấy chẳng chóng thì chày sẽ tự động diễn ra trong đầu mỗi người
nên dầu ta có sợ cũng không cản lại được. Vận mệnh lâu dài của hàng nghìn triệu
người cũng đòi hỏi phải làm như vậy, nếu không mọi sự sửa chữa đều chỉ là sự
đối phó nhất thời.
Những thông tin, nhất là
thông tin từ cuộc Cải tổ ở Liên xô, đã bộc lộ dần một vài hướng suy nghĩ. Chẳng
hạn :
- Cần xem lại một số luận
điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, hay ít ra là xem lại cách hiểu về những luận điểm
cơ bản ấy (ý nghĩ này chẳng có gì mới lạ vì chính Mác và Lênin cũng khuyên như
thế và cũng từng làm như thế).
- Chủ nghĩa Đế quốc có
thật là giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản hay chỉ là một trong những bước
đi ban đầu của chủ nghĩa tư bản !Và một khi chủ nghĩa tư bản chưa ở giai đoạn
tất yếu phải cáo chung thì điều đó có nghĩa là lịch sử chưa đòi hỏi và chưa tạo
tiền đề để có một cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đích thực...
Chưa nói nguyên nhân nào
là đúng, nguyên nhân nào là sai, nhưng ít ra ngưyên nhân cũng phải ở tầm cỡ như
vậy mới có thể có sức chi phối ghê gớm đối với xã hội như chúng ta đã và đang
thấy.
Song ta cũng không cần nói
theo ai cả. Hãy dùng hiểu biết của chính mình mà rà soát lại toàn bộ vấn đề xem
có tự phát hiện được điều gì không?
Điều đầu tiên để hiểu một
chủ nghĩa là xem mục đích và phương tiện mà chủ nghĩa ấy đề cập tới. Lý tưởng
cộng sản là một lý tưởng hết sức tốt đẹp. Vì đã gọi là lý tưởng thì lý tưởng
nào chẳng hướng tới hạnh phúc của con người, giải phóng con người khỏi những
bất hạnh về vật chất, tinh thần và sự bất công xã hội? Lý tưởng cộng sản nhấn
mạnh tính xã hội của con người cũng như của tư liệu sản xuất, điều đó là khoa
học, là xu hướng tiến hoá tất yếu của xã hội loài người, nhưng sự xã hội hoá sẽ
diễn ra cụ thể thế nào là thuận quy luật thì sẽ bàn sau. Một xã hội không còn người
bóc lột người, chính điều này còn gây tranh luận, vì nếu hiểu một cách chung
chung là không còn áp bức bất công thì chẳng có gì để tranh luận, nhưng nếu
hiểu chữ bóc lột ở đây như một thuật ngữ kinh tế chính trị học, là bóc lột giá
trị thặng dư , thì vấn đề lại không đơn giản chút nào. Tuy vậy vấn đề nàycũng
xin tạm xếp sang một bên, vì tự nó cũng chưa thể là nguyên nhân sinh ra mọi
chuyện.
Điều quan trọng có ý nghĩa
quyết định đối với một lý tưởng lại là đi tới lý tưởng đó bằng cách nào, bằng
phương tiện hay công cụ gì. Luận điểm về con đường đấu tranh giai cấp và công
cụ chuyên chính vô sản chính là hòn đá tảng của chủ nghĩa xã hội khoa học . Do
tầm quan trọng như vậy mà ta hãy dừng lại lâu một chút trên hòn đá tảng này để
xem xét cho kỹ, không thể vội và cho qua được.
Giai cấp là gì, và ý nghĩa
của nó trong xã hội như thế nào?
Để phân định điều phải và
quyết định thái độ cũng như hành động của mình, con người có ba thứ căn cứ :
trí thức, lòng tin và quyền lợi. Luôn lấy trí thức, lấy khoa học làm căn cứ, đó
là chủ nghĩa DUY LÝ (1), cái gì trái với quy luật khách quan mà mình nhận thức
được thì không chấp nhận. Luôn lấy lòng tin làm căn cứ là chủ nghĩa DUY TÍN
(2), cái gì trái với những điều mình tin, mình cho là thiêng liêng thì không
chấp nhận. Luôn lấy lợi ích làm căn cứ là chủ nghĩa DUY LỢI (3), cái gì trái
với lợi ích của mình hay của những người chung lợi ích với mình thì không chấp
nhận.
Theo mức độ duy lý, con
người chia thành tri thức và không tri thức. Theo mức độ duy tín thì chia thành
có tín ngưỡng và không tín ngưỡng. Người thực sự duy lý hay thực sự duy tin thì
tự thân không có tính giai cấp rõ rệt, vì sự phân chia giai cấp chỉ là sự phân
chia theo quyền lợi. (Giai cấp là những tập đoàn người được phân chia theo sự
chiếm hữu đối với tư liệu sản xuất, theo vai trò trong tổ chức sản xuất và theo
sự phân phối của cải xã hội : cả ba tiêu chuẩn này đều là quyền và lợi). Hiểu
theo nghĩa đó thì người mang tính giai cấp rõ rệt là người duy lợi (túc là lấy
lợi ích làm chuẩn, kể cả lợi ích chân chính, lợi ích của một giai cấp). Vì vậy
sự phân chia con người thành giai cấp tuy có những ý nghĩa nhất định nhưng
không phải là sự phân chia duy nhất có ý nghĩa, không hoàn toàn đầy đủ, không
bao hàm được hết xã hội. Tuyệt đối hoá lý thuyết giai cấp là rơi vào thuyết
giai cấp cực đoan. Đem cái nhìn giai cấp trùm lên mọi hiện tượng của con người
và xã hội sẽ không tránh khỏi làm méo mó xã hội, sẽ gặp lúng túng khi giải
quyết vấn đề tri thức, vấn đề tôn giáo cùng như nhiều vấn đề xã hội khác.
Vì quan niệm rằng người
nào cũng phải có một thành phần giai cấp nên ta gặp lúng túng khi không biết
xếp những người tri thức vào giai cấp nào, và gán luôn cho họ cái bản chất lừng
khừng không kiên quyết cách mạng. Thực tế đã cho thấy nhiều nhà bác học đã kiên
quyết lên giàn lửa để bảo vệ chân lý khoa học, người tín đồ kiên quyết cách
mạng đến mức trở thành lãnh tụ cách mạng, khi nhận thức rằng sự vận động đó phù
hợp với quy luật, phù hợp với căn cứ duy lý của mình.
Duy lý, duy tín và duy lợi
tuy khác nhau ở xuất phát điểm nhưng muốn hành động đạt được kết quả tốt thì
lại cần sự hỗ trợ của nhau : vì thế nếu phát triển đến độ hoàn hảo thì lại gặp
nhau, thống nhất với nhau. Nhưng trong thực tế, ở một phạm vi xác định, ở một
con người cụ thể thì ba căn cứ ấy ít khi đạt được sự thống nhất hoàn hảo,
thường có tình trạng một trong ba căn cứ ấy nổi lên chiếm vai trò chủ đạo để
dẫn dắt hành vi của con người. Ba yếu tố ấy đan vào nhau, chuyển hoá lẫn nhau
trong mối quan hệ tay ba vừa thống nhất lại vừa mâu thuẫn, nên việc tách bạch ba
yếu tố ấy trong một con người, trong một việc làm không phải là điều dễ dàng,
và đó là nguồn gốc sâu xa của biết bao hiện tượng rối rắm nan giải của xã hội
và của mỗi con người. Nhiều người đã tuyên bố chủ trương kết hợp chân lý khoa
học với lợi ích của giai cấp công nhân , nói cách khác là chủ trương chung sống
hài hoà giữa duy lý và duy lợi Nhưng trong cuộc chung sống lâu dài thì cái cân
bằng rất hợp lý này cứ chuyển dịch để duy lợi thôn tính dần duy lý.
Các Mác rất coi trọng vấn
đề lợi ích và đây là một điều đáng quý ở một nhà khoa học, nhưng là nhà khoa
học, Mác đứng ở góc độ duy lý mà tiếp cận sang duy lợi. Nhiều người khác cũng
đi theo chủ nghĩa Mác nhưng lại từ góc độ duy lợi mà tiếp cận sang duy lý.
Người càng ít hiểu biết thì tính duy lý càng ít (nhân bất học, bất trí ly), để
thành duy lợi cực đoan, hoặc lại biến chủ nghĩa Mác thành một thứ duy tín, một
thứ tôn giáo.
Trong ba căn cứ ấy thì duy
lý tiêu biểu cho khoa học, cho quy luật khách quan nên là căn cứ đúng đắn nhất,
nó bao dung dược cái duy lợi và duy tín hợp lý. Ngược lại, khi chủ nghĩa duy
lợi hay duy tín mà nắm vai trò dẫn dắt xã hội thì nó rất dễ tiến đến cực đoan
mà không chấp nhận nói cái duy lý. Giáo hội La mã ngày trước đã thiêu sống
nhiều nhà bác học chỉ vì họ phát hiện những định luật khoa học. Những tên vua
Trung Quốc nào võ biên ít học thì đã phân thư, khanh nho (đốt sách giết nhà
nho). Những hồng vệ binh mù chữ Trung Quốc và những tên lính Pônpốt mù chữ
Campuchia đã hành hạ những trí thức ưu tú của dân tộc mình. Phong trào Xô viết Nghệ
tĩnh năm 1930 đã đặt tri thức lên hàng đầu trong khẩu hiệu Trí, phú, địa hao -
Đào tận gốc, trốc tận rễ!. Nhiều nạn nhân văn hoá của Liên xô đã là nạn nhân
điển hình của những sự đối xử tương tự...
Nhìn rộng ra nửa thì lịch
sử tiến hoá của nhân loại thực chất là gì?
Do biết sử dụng công cụ
nên, khác với mọi sinh vật, con người không tiến hoá bằng cách biến đổi những
cấu tạo của cơ thể mà bằng cách hoàn thiện không ngừng công cụ lao động. Cùng
với sự cải tiến công cụ là cải tiến quy trình sản xuất, hoàn thiện kỹ năng...
dẫn đến tăng năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Tất cả những biến đổi
cơ bản ấy đều là biểu hiện sự gia tăng tri thức của con người về các quy luật
tự nhiên và quy luật quản lý, tổ chức xã hội. Vậy thì, cái lõi bên trong của dòng
tiến hoá là dòng phát triển của trí thức nhân loại, còn sự đấu tranh giữa tập
đoàn người này với tập đoàn người khác, tức là sự đấu tranh giai cấp chỉ là cái
vỏ, là những hiện tượng xã hội kèm theo mà thôi. Dòng gia tăng tri thức của xã
hội là cái lõi, nó phản ánh bản chất của sự tiến hoá nên không thể thiếu và tồn
tại xuyên suốt từ đầu đến cuối lịch sử loài người. Còn sự đấu tranh giai cấp
chỉ là cái vỏ bên ngoài, là một trong những hiện tượng xã hội kèm theo nên chỉ
có tính chất tạm thời, luôn thay đổi màu sắc, và con người có khả năng sử dụng
nó, hoặc giảm nhẹ hay loại trừ nó đi trong nhiều giai đoạn của dòng tiến hoá
bất tận.
Khi nói trong phương thức
sản xuất, lực lượng sản xuẩt là yếu tố năng động nhất thì sẽ là thiếu sót nếu
không tiếp tục nói : trong lực lượng sản xuất thì sự năng động ấy nằm ở yếu tố
con người, trong con người thì sự năng động ấy nằm ở bộ óc tức là phần lao động
trí tuệ.
Bản chất của sự tiến hoá
là như vậy. Tinh thần khoa học quan trọng nhất trong học thuyết xã hội của Mác
đáng lẽ cũng phải là như vậy. Nhưng dưới lăng kính giai cấp nhiều cuốn sách lại
có lối mô tả dòng tiến hoá của xã hội như sau :... Giai cấp bị trị và giai cấp
thống trị luôn đối kháng nhau về quyền lợi nên sinh ra đấu tranh giai cấp. Nô
lệ chống chủ nô làm chế độ chiếm hữu nô lệ tan rã. Nông dân chống địa chủ phong
kiến làm chế độ phong kiến tan rã. Giai cấp công nhân chống giai cấp tư sản làm
chủ nghĩa tư bản sụp đổ... . Lối mô tả ấy xuất phát từ nhận thức sai lầm coi
dòng tiến hoá là dòng đấu tranh của những giai cấp bị trị lật đổ những giai cấp
thống trị, nên mỗi khi giai cấp bị trị không nắn được quyền lãnh đạo trong xã
hội mới thì chúng ta coi là công lao của họ bị lợi dụng. Thế thì lịch sử là một
chuỗi bất công đầy vô lý, trong đó những kẻ xấu bụng đi lợi dụng công lao người
khác lại cứ được lịch sử cho kế tiếp nhau điều khiển xã hội. Đến khi có cách
mạng vô sản thì mới phát sinh một ngoại lệ, giai cấp công nhân là giai cấp bị
trị lên lãnh đạo xã hội và ngoại lệ này mới chính là niềm mơ ước của nhân loại
(!!).
Không, lịch sử rất thống
nhất chứ không tuỳ tiện. Mỗi cuộc biến đổi được gọi là cách mạng xã hội bao giờ
cũng là sự cạnh tranh của hai thế lực lãnh đạo xã hội, tiêu biểu cho hai bậc
thang về trình độ tổ chức xã hội, ứng với hai trình độ khác nhau của khoa học,
của tri thức con người thời ấy. Thế lực lãnh đạo mới sẽ thắng vì có trình độ
cao hơn (thế lực có trình độ cao hơn này không bao giờ nằm ở giai cấp bị trị,
dù giai cấp bị trị có tạm thời đoạt được quyền binh thì trước sau họ cũng lại
rơi vào quỹ đạo của những thế lực kia). Sự đấu tranh của giai cấp bị trị cũng
như của quần chúng nói chung chỉ có tác dụng tạo ra áp lực to lớn của xã hội
giúp cho chuyên chính mau chóng chuyển từ tay thế lực lãnh đạo cũ sang tay thế
lực lãnh đạo mới, điều này đáp ứng yêu cầu phát triển chung của toàn xã hội.
Lôgic của lịch sử vốn là như vậy, bất chấp chúng ta vừa lòng hay không vừa
lòng. Việc đưa giai cấp công nhân vào vị trí giai cấp lãnh đạo trong toàn xã
hội mới là một việc làm mang tính đạo đức, làm nức lòng số đông đang công phẫn
nên có sức mạnh tập hợp to lớn trong thời kỳ đầu, nhưng không theo quy luật nên
dễ tự phát sinh mâu thuẫn trong những giai đoạn sau.
Nhiều người nhận xét rằng
càng về sau việc thực thi chủ nghĩa Mác càng có xu hướng không đúng với những
tinh thần nguyên lý ban đầu của Mác và chiều hướng của những sai lệch dường như
có tính lôgic, tính quy luật.
Thực tế đã bộc lộ một nhận
thức sai lệch của nhiều người, hiểu tinh thần chính của chữ cách mạng là ở ý
nghĩa lật đổ, lật đổ người giàu, lấy của chia cho người nghèo như các anh hùng
hảo hán ngày xưa vẫn làm. Đây là biểu hiện chủ nghĩa bình quân thiển cận của
nông dân. Chủ nghĩa bình quân gắn chặt với tư tưởng lật đổ. Khi mình chưa có
thì muốn lật đổ để cạo bằng, cạo bằng được rồi lại muốn mình giàu hơn người
khác, lật đổ vua nhưng rồi mình lại thành vua.
Muốn làm giảm tận gốc bất
công xã hội và tăng hạnh phúc của nhân dân thì sự công bằng phải đặt trên cơ sở
nâng cao cả nền sản xuất của xã hội. Động tác chính của cách mạng là động tác
nâng cao chứ không phải động tác cạo bằng. Cạo bằng là động tác của bạo lực,
nâng cao là động tác của tri thức khoa học, của năng lực tổ chức sản xuất và tổ
chức xã hội. Chúng ta đấu tranh cho công bằng chứ không chấp nhận sự cạo bằng,
vì cạo bằng làm cho xã hội thấp đi và tạo ra sự bất công mới khốc liệt hơn. Nếu
ta mới chỉ đạt những thắng lợi to lớn trong những việc mang tính lật đổ và cạo
bằng mà chưa có những thắng lợi to lớn trong việc nâng cao thì thực chất là
chưa có cách mạng. Cách mạng xã hội không đồng nghĩa với cướp chính quyền, cũng
không đồng nghĩa với giải phóng dân tộc... mặc dù những hình thức đấu tranh
chống áp bức, đòi công bằng xã hội (trong đó có đấu tranh giai cấp)đều rất cần
thiết, và còn luôn luôn cần thiết trong xã hội loài người, đều có giá trị riêng
của nó và liên quan mật thiết với nhau.
Giai cấp bị trị trong xã
hội cũ không thể trở thành giai cấp lãnh đạo trong xã hội mới vì bản thân giai
cấp bị trị không thể tiêu biểu cho trình độ nhất của tri thức con người thời
ấy. Chính vì thế mà khi muốn đưa giai cấp công nhân thành giai cấp lãnh đạo,
Mác đã phải đặt ra một điều kiện rằng đó phải là giai cấp công nhân đại công
nghiệp để có thể tiêu biểu cho nền sản xuất hiện đại, để công nhân đồng thời là
trí thức. Nhưng thử nhìn vào các nước tư bản đã có nền đại công nghiệp hiện nay
thì ta thấy tầng lớp tiêu biểu cho khoa học, cho trí thức tiên tiến của các
nước ấy không thể nào lại là công nhân của các nước ấy được, mặc dù trình độ
công nhân của họ cao hơn của các nước khác rất nhều. Mà hình như khi trình độ
của những công nhân ấy được nâng cao lên (như ở Nhật bản chẳng hạn) thì họ lại
giảm đấu tranh đi, tức là giảm sự giác ngộ giai cấp , tức là giảm khả năng trở
thành lãnh đạo cách mạng. Như vậy thì chính yêu cầu của Mác đề ra cũng có thể
còn là bật cấp, huống chi những người Bôn-sê-vich Nga (cũng như đảng Cộng sản ở
nhiều nước đã làm cách mạng vô sản) thì lại bất chấp cả yêu cầu tối thiểu ấy
của Mác, chủ trương làm cách mạng ngay trong khi giai cấp công nhân nước mình
còn cách xa yêu cầu của Mác. Chưa kể trường hợp mà sự lãnh đạo thực chất còn
nằm trong quỹ đạo nông dân thì đương nhiên còn tai hại hơn.
Phải chăng do ý thức được
cái lỗ hổng này mà Lê-nin đã yêu cầu người cộng sản phải cấp trau giồi trí
thức, và tự Lê-nin đã nêu một tấm gương về sự sử dụng trí thức, kể cả trí thức
của chế độ cũ. Lê-nin nói : Chỉ có đem toàn bộ kho trí thức của nhân loại để
làm giàu cho bộ óc của mình, chúng ta mới có thể trở thành người cộng sản!. Cái
định nghĩa tuyệt vời về người cộng sản ấy có thể coi chính là định nghĩa về người
trí thức. Chất cộng sản và chất trí thức phải chung làm một. Nếu một đảng viên
đều được kết nạp trên tinh thần ấy của Lê-nin thì đảng cộng sản chính là đảng
của trí thức cách mạng.
Nhưng trong thực tế thì
lời giáo huấn ấy có thực hiện được không?
Đây là một tình trạng có
thật và khá phổ biến : Chúng tôi là những con em công nhân và nông dân. Nếu
chúng tôi chỉ học khoảng hết cấp một và ở lại địa phương sản xuất thì với lòng
hăng say mà chúng tôi vốn có giám chắc rằng chúng tôi đã thành đảng viên từ lâu
rồi. Nhưng chúng tôi lại ham học. Sau mấy chục năm được nhà trường xã hội chủ
nghĩa trau giồi bao nhiêu trí thức và khoa học tự nhiên, về triết học Mác
Lê-nin, về chính trị... thì bây giờ các chi bộ lại không còn coi chúng tôi là
thành phần công nông gần đảng nữa mà chuyển thành thành phần tiểu tư sản bấp
bênh. Trở thành kỹ sư, tiến sỹ, giáo sư... thì lại xa đảng hơn lúc chưa đi
học!. Nghĩa là trên thực tế thì chất Đảng không thuận chiều với chất trí thức.
Đó là những nghịch lý .
Những nghịch lý ấy lại là
nguyên nhân của một loạt các nghịch lý tiếp theo.
Kết quả trực tiếp nhất và
cũng cơ bản nhất là sản xuất không phát triển, năng suất lao động thấp, sản
phẩm hàng hoá ít, đời sống khó khăn. Đời sống tinh thần cũng bị hạ thấp do phải
lùi bước trước những nhu cầu sinh tồn tối thiểu. Tính kém hiệu quả của tổ chức
xã hội đã gây nên cái điều rất vô lý (thực ra chẳng có gì là vô lý cả)là muốn
xây dựng một hệ thống phát triển nhất trong lịch sử loài người thì lại thu được
một hệ thống không phát triển, thậm chí chống lại sự phát triển.
Con người một khi không đủ
trí thức để có điều kiện huy động sự thông minh và tính kiên quyết để tính cái
lợi xa thì nó huy động sự thông minh và tính kiên quyết để tính cái lợi gần.
Không tăng được sản xuất để gia tăng của cải chung của xã hội thì cải tiến cách
phân phối để chiếm được phần hơn trong cái tổng số còn ít ỏi. Sự ưu tiên đặc
biệt này gắn chặt với chức quyền. Vì lợi mà phải chiếm quyền (vẫn từ cái gốc
duy lợi mà ra). Có chức có quyền thì có lợi. Người ta xô nhau chiếm chức quyền
làm cho bộ máy chính quyền vốn đã ít hiệu quả lại cứ phình to mãi ra. Sự bao
cấp đến mức thành đặc quyền đặc lợi cứ chất mãi gánh nặng lên vai Nhà nước, lên
vai nhân dân. Đến mức không chịu nổi nữa thì Nhà nước buộc phải chống bao cấp
nhưng lại buông khỏi tay mình những bộ phận cần được bao cấp chu đáo. Điều này
làm cho Nhà nước yếu đi. Nhà nước yếu đi thì điều khiển làm sao được sự chống
bao cấp? Nạn bao cấp không thực sự mất đi mà tồn tại một cách không chính thức
thì lại càng nguy hiểm hơn. Nó mang tính bao cấp trá hình, bao cấp nhưng lại
pha màu tự do cạnh tranh và chụp giựt. Giảm biên chế là một nhu cầu sống còn,
nhưng nếu tiến hành giảm biên chế trong điều kiện cán bộ khung chưa được kiện
toàn trước từ trên xuống (mà điều này thì không thể thực hiện được) và ở bên
dưới thì quần chúng chưa thực sự làm chủ thì mỗi đợt giảm biên chế càng tạo
điều kiện để những con ký sinh trùng bám chặt thêm vào ruột Nhà nước mà sinh đẻ
thêm và đẩy những người trung thực ra rìa, thậm chí có thể dẫn đến tình trạng
tư hữu hoá cơ quan nhà nước.
Khi người chỉ huy không đủ
trí thức để điều hành công việc và thuyết phục quần chúng thì họ bị giằng co
giữa hai động cơ :một mặt rất muốn dùng những người tri thức, một mặt lại sợ
trí thức. Để có thể che giấu sự kém cỏi của mình, để được yên tâm toạ hưởng
giữa nơi mập mờ, lùng nhùng, họ không giám thực sự nâng cao dân trí, không giám
cho dân phát triển dân chủ, tự do. Anh sáng trí tuệ đối với họ lúc này lại là
điều bất lợi (và cái châm ngôn kết hợp chân lý khoa học với lợi ích của giai
cấp lúc này chỉ còn là khẩu hiệu trên giấy thôi, chân lý khoa học không được
tôn trọng đã đành mà lợi ích cũng không còn là lợi ích giai cấp).
Có ham muốn, có quyết tâm
mà thiếu trí thức thì ắt là sa vào vòng duy ý chí. Người chỉ huy sẽ trở thành
kẻ độc tài dù tự giác hay không tự giác. Vì thế mà xất hiện cái điều tưởng như
rất vô lý là muốn xây dựng một hệ thống đầy đủ tính Con người nhất thì lại thu
được một hệ thống mâu thuẫn với quyềnCon người. Chúng ta không quên rằng Mác và
Lê-nin đã từng phê phán kịch liệt thứ chủ nghĩa xã hội kiểu trại lính, kiểu này
là sản phẩm chung của bệnh xã hội chủ nghĩa không tưởng .
Việc xây dựng chuyên chính
vô sản như các nước xã hội chủ nghiã chúng ta đã làm ắt phải dẫn đến sự sùng
bái cá nhân. Tại sao vậy?
Từ trước tới nay con người
bao giờ cũng coi là giá trị nhân đạo là giá trị cao nhất, là thước đo cao nhất.
Thước đo cuối cùng. Nhưng đùng một cái, xuất hiện và lưu hành luận điểm rằng :
Không có sự nhân đạo chung chung. Trong xã hội có giai cấp thì sự nhân đạo cũng
mang tính giai cấp (!). Vì thế, trước hết phải trung thành với lợi ích của giai
cấp công nhân. Giai cấp công nhân là tiêu biểu cho thời đại nên lợi ích của
giai cấp này cũng phù hợp với lợi ích chân chính của các giai cấp khác . Thế là
tính nhân đạo được thay thế bằng tính giai cấp, hay nói đúng hơn là phải quy
thuận tính giai cấp. Cái giá trị tinh thần cao quý nhất mà con người bao đời đã
dùng để dạy bảo nhau sống cho nên người bỗng bị đảo chính rất gọn để thay bằng
một giá trị được gọi là mới, là cao hơn, nhưng chưa qua thử thách của lịch sử
(và ngay về phương pháp luận nó đã tỏ ra không ổn). Nhưng ngay cả sự đề cao
giai cấp công nhân ở đây cũng chỉ mang tính hình thức vì vấn đề không dừng ở
chỗ này. Giai cấp phải được đại diện bởi đội tiền phong của mình là Đảng, tính
giai cấp được nâng thành tính đảng. Đảng theo nguyên tắc tập trung dân chủ (mà
thực tiễn cho thấy tính dân chủ thì thường bị vi phạm, còn tính tập trung thì
bất khả vi phạm). Đảng tập trung vào trung ương đảng. Trung ương tập trung vào
Bộ Chính trị... và cuối cùng tập trung vào một người nắm quyền cao nhất. Ai
chống lại người này thực tế sẽ dễ dàng bị quy là chống Trung ương(tất nhiên về
lý thuyết thì không ai nói như vậy), chống Trung ương sẽ bị quy là chống Đảng,
chống đảng quy thành chống giai cấp mà chống đúng vào cái giai cấp tiêu biểu
của nhân loại thì hiển nhiên là chống dân tộc, hoặc chống cả nhân loại rồi còn
gì! Rốt cuộc, tình cảm thiêng liêng đối với dân tộc hay đối với toàn nhân loại
lại được đo bằng sự trung thành đối với một con người cụ thể. Chuyện Stalin.
Mao Trạch Đông... dễ dàng quy nhiều đồng chí của mình trong Bộ chính trị thành
phản động đã chẳng là những ví dụ điển hình đó sao?
Vì thế mà tồn tại cái điều
rất vô lý (?) là muốn xây dựng một hệ thống dặc trưng bởi tính tập thể, tính
thế giới đại đồng, tính toàn nhân loại lại thu được một hệ thống rất dễ nảy
sinh chủ nghĩa cá nhân cực đoan mâu thuẫn với tính Nhân loại.
Tiến hoá cũng là quá trình
trong đó tính Nhân từng bước lấn dần Tính thú. Khi yếu tố nhận không được phát
huy thì yếu tố thu sẽ vùng dậy. Biết bao vụ án đau lòng là biểu hiện sự lộng
phát của thú tính. Con người dùng bạo lực để thống trị nhau, lấy việc trừng trị
người khác làm điều thích thú, sinh sống bằng cách chiếm đoạt những giá trị có
sẵn của thiên nhiên và xã hội chứ không sáng tạo...
Con người là một sinh vật
xã hội nên sự phát triển tính nhân cũng đồng thời là sự phát triển tính xã hội,
tính có tổ chức của nó. Tính xã hội là một biểu hiện cao của nhân tính, còn chủ
nghĩa quân phiệt với mọi biểu hiện mất dân chủ về bản chất là dị chứng của thu
tính, nên hai thứ đó phải được xem là đối lập nhau như nước với lửa.
Chúng ta có trong tay một
xã hội không theo ý muốn, thậm chí lộn ngược, lộn ngược so với ý đồ thiết kế,
lộn ngược so với cái tự nhiên, trong đó không có cái gì ở đúng vị trí hợp lý
của nó cả (tức là một hệ thống có khuyết tật cấu trúc) nên cứ người nọ thì phải
làm việc của người kia.
Vì thế mà không một quy
luật chính thống nào của tự nhiên cũng như của xã hội có thể phát huy được xã
hội. Vì như trong vùng phần vật chất thì những quy luật của thế giới vật chất
thông thường không còn tác dụng vậy. Trong một không gian phần quy luật thì
những nghịch lý sẽ hoạt động :cái tính thua cái thô, cái trật tự thua cái lộn
xộn, cái tích cực thua cái tiêu cực, cái đạo đức thua cái vô liêm sỉ... và con
người đi giật lùi!
Có phải rằng bấy lâu nay
chúng ta lúng túng muốn cắt nghĩa cho mình mà không sao cắt nghĩa được? Vì,
hiện thực xã hội tuy có thế thật nhưng lý tưỏng của chúng ta thì không thể nói
là không cao đẹp. Vì thực tế khách quan tuy có thế thật, nhưng chung quanh thì
ai muốn thế? Vì hiện nay tuy có thế thật, nhưng trước đây đâu có thế? Vì tuy có
những kẻ đồi bại thật nhưng còn bao tấm gương tuyệt vời trong sáng thì sao? Vì
tạm thời tuy có thế thật nhưng rồi xã hội vẫn phải tiến lên chứ?... Vâng, đúng
như vậy, không có gì là bế tắc cả. Khi chúng ta đã gỡ được cái điểm nút cuối
cùng trong mớ bòng bong ấy thì mọi điều rắc rối trái ngược đều được giải đáp
thích đáng, trọn lý vẹn tình. Có tách bạch được chính xác tận gốc cái sai mới
bảo vệ được các giá trị chân chính. Còn nhưũng lời giải nửa chừng thì có thể dễ
dung hoá nhưng rồi sẽ lại tiếp tục bế tắc.
Chỉ cần chúng ta thực sự
phục thiên. Nhưng chúng ta sẽ thực sự là những người bế tắc nếu chúng ta bảo
thủ. Một bên là lý thuyết tốt đẹp, một bên là thực tế không chấp nhận được,
chúng ta bị nhốt ở giữa, lúng túng đối phó, mà bức tường hai bên cứ khép dần
lại dưới sức ép của nhu cầu đổi mới. Xuất phát từ lương tâm trong sáng, nhiều
người bảo thủ trước đây nay đã dũng cảm tự phản bác mình để thành một chiến sỹ
trong Mặt trận Đổi mới. Nhưng những kẻ cố thủ thì đối phó với thực tiễn bằng
cách chiếm hữu chức quyền cho chắc, tranh thủ dùng quyền lực để kiếm lợi, miệng
thì nói dối, tìm mọi cách để nguỵ biện, nguỵ trang.
Chiếm hữu quyền lực là
biến tướng của chế độ chiếm hữu, nó khôn ngoan và triệt để hơn nhiều so với
chiếm hữu trực tiếp tư liệu sản xuất. Còn muốn dung hoà giữa hai thứ không thể
dung hoà là lý tưởng tốt đẹp và thực tế xấu thì có cách gì khác mà không phải
chống chế bằng cách nói dối, nguỵ trang? Nguỵ trang và chống nguỵ trang là cục
diện đặc biệt của những cuộc đấu tranh chính trị, xã hội, kinh tế, văn hoá...
ngày nay. Những tính cách vốn là ưu điểm như nhân hậu chín chắn, có quan điểm
lịch sự, biết chờ đợi nhau, có thái độ thực tế, biết thích nghi... nhiều khi
lại được sử dụng một cách rất bệnh hoạn để che đậy những biểu hiện khác nhau
của chủ nghĩa cơ hội như thái độ bạc nhược, quay mặt đi một cách vô trách
nhiệm, ngậm miệng ăn tiền, trì hoãn, thậm chí độc ác, lì lợm, cố thủ... Một bộ
phận của giới trí thức bị phân hoá đã rời khỏi sự duy lý chân thực mà đứng hẳn
sang phía duy lợi cực đoan (như vậy thì về thực chất họ không còn là trí
thức)đã góp phần rất đắc lực vào sự nói dối, nguỵ biện này. Trong bức tranh
chung về sự tha hoá, cái bệnh nói dối cứ như con bạch tuộc ôm ghì lấy toàn xã
hội, chẳng để cho ai thoát ra!
Nhưng không, chúng ta phải
thoát ra!
Tất cả những điều đã trình
bầy ở trên có thể được sơ đồ hoá bằng một sơ đồ kèm dưới đây. Xin theo dõi sơ
đồ từ dưới lên trên, theo chiều những mũi tên, gốc mũi tên chỉ nguyên nhân, đầu
mũi tên chỉ kết quả
Sau cùng, nhìn bao quát
toàn sơ đồ để thấy một điều mấu chốt là dùng phương tiện không thích đáng thì
không tới được mục đích.
Ta tưởng tượng như có anh
lái xe nọ, phải đến một miền rất xa để kiếm lương thực về cho mọi người và cho
anh ta. Nhưng chúng ta lại trao cho anh ta một phương tiện quá đặc biệt, một
chiếc xe mà trên đó có đủ lương thực mà anh ta thoả sức ăn cả đời không hết,
thì chỉ cần đi một quãng là anh ta bắt đầu thay đổi ý định (sự thay đổi tất
yếu, mà chúng ta gọi là thoái hoá biến chất) :cứ việc ngồi trên xe mà toạ
hưởng, chứ dại gì xông pha mưa gió đến nơi xa xôi nọ! Dẫu có đến nơi thì cái
phần mà anh ta sẽ được chia chắc gì cái phần mà anh đang có sờ sờ trên chiếc xe
này? Thế là anh lái xe biến luôn cái phương tiện thành mục đích. Anh ta đến
đích một mình đến thiên đường rất sớm còn mọi người thì chẳng ai được xơ múi gì
cả. Khi chiếc xe chỉ nổ máy, chữa máy giữa đường mà không đi nữa, hoặc muốn đi
thế nào cũng được, thì người lái xe đâu cần phải biết lái xe? Cái anh ta cần
biết bây giờ là kĩ thuật gây ảo giác và làm tê liệt khả năng phản ứng của mọi
người.
Ngày Bác Hồ ra đi tìm
đường cứu nước thì cứu nước mưu hạnh phúc cho dân là mục đích. Chủ nghĩa Mác
Lênin được Bác coi là con đường là phương tiện giúp dân ta đi đến đích đó.
Nhưng rồi dần dần lại xuất hiện tín ngưỡng dâng tất cả để tôn thờ chủ nghĩa !
Lạ như vậy đấy, chủ nghĩa với tư cách là con đường, là phương tiện thì nó là
cái để ta dùng chứ sao lại là cái để ta thờ? Động cơ ấy lúc đầu hẳn là do ta
thành tâm quá đó thôi... Nhưng dù do gì đi nữa thì hậu quả nguy hiểm vẫn là ở
chỗ :khi cái phương tiện đã thành cái mục đích thì lẽ tự nhiên cái mục đích (ở
đây là dân tộc), đổi chỗ để thành cái phương tiện (!). Như trong câu chuyện
khôi hài ngày trước, khi đôi giầy da được đánh bóng và kẹp bên nách thì đôi bàn
chân phải thay đôi giầy mà đương đầu với gai góc. Lúc vấp ngã, chân toé máu ra,
ai cũng tưởng phen này anh ta phải tỉnh ngộ, bỏ giầy xuống mà đi vào chân. Nào
ngờ đây chính là dịp để anh ta càng thêm tự hào về sự thông minh của mình, rằng
nếu không thì cú vấp vừa rồi hắn đã làm sứt mất đôi giầy quý. Nghe chuyện khôi
hài mà ứa nước mắt. Nhưng anh ta có cái lý của anh ta đấy vì đối với anh ta,
thì cái để anh hy vọng trở nên sang trọng chính là đôi giầy bóng chứ đâu phải
đôi chân! Cố giữ lấy đôi giầy cũng phải!
Đã có một thời, và thời đó
còn tiếp đến ngày nay, chúng ta muốn giương ngọn cờ giai cấp làm tấm hộ chiếu
quá cảnh vượt qua mọi biên giới dân tộc để thống nhất toàn thế giới. Nhưng thực
tiễn lịch sử đã chứng tỏ rằng ý muốn ấy chỉ là chủ quan (nên chẳng giương ngọn
cờ dân tộc để khắc phục dần mâu thuẫn giai cấp?). Có một quy luật đã được kiểm
nghiệm là nếu thống nhất với nhau chủ yếu từ tiếng gọi của lợi quyền thì trước
sau cũng lại chia ly chính do lợi quyền. Chỉ có một thứ thực sự là của chung
của nhân loại, không thể chiếm hữu, không thể độc quyền, một thứ mà ngày nay cứ
xuất hiện ở đâu là quốc tế hoá ngay, đó là trí tuệ, là khoa học, là sự phát
hiện những quy luật khách quan. Cái tài sản chung quý báu này luôn được đổi
mới, bổ sung. Còn nói về chủ nghĩa thì đủ sức ôm cả cái loại người bất diệt có
lẽ chỉ có và chỉ cần một chủ nghĩa, cái chủ nghĩa chẳng có gì mới nhưng bất
diệt mà ta rất nên tôn thờ là chủ nghĩa nhân đạo. (mọi chủ nghĩa khác chẳng qua
chỉ là những hệ phương pháp ứng xử để ta sử dụng linh hoạt trong những hoàn
cảnh lịch sử cụ thể mà thôi).
Có hành động đúng quy luật
thì mọi việc mới xuôi được. Hiện tượng xã hội lộn ngược với những nghịch lý đã
nói trên chỉ có thể giải thích rằng ngay từ những điểm xuất phát chúng ta đã
nghĩ và làm không đúng với những quy luật khách quan nên càng về sau càng chịu
sự chống trả quyết liệt của quy luật. Muốn làm chủ như chúng ta thường nói,
trước hết phải làm chủ được các quy luật. Muốn vậy, con người trước hết phải có
sự học hành đầy đủ để tiếp thu những trí thức đã có của nhân loại, phải được
suy nghĩ hoàn toàn tự do, và đặc biệt phải lấy thực tiễn để kiểm chứng mọi điều
đã nghĩ, kể cả những điều mà một thời những tượng đá đóng đanh vào lịch sử.
Chính Các Mác đã khuyên mọi người hãy hoài nghi tất cả , hoặc là nhân cách của
một nhà khoa học lớn! Chính Mác đã nêu tấm gương về sự tự hoài nghi, tự xét lại
mình thì đương nhiên Mác không thể chấp nhận danh hiệu mác xít cho những ai
muốn biến Mác thành một thần tượng bất khả xâm phạm. Một khi Mác đã không chấp
nhận để mọi người coi mình là thần tượng thì còn học trò nào của Mác được phép
chấp nhận điều đó? Từ khi Mác mất đến nay hơn một thế kỷ, con người lớn lên như
vũ bão, khoa học kỹ thuật đã làm thay đổi hẳn bộ mặt loài người, kỹ thuật tin
học ngày càng gắn cả loài người thành một chính thể. Nếu chúng ta không nhìn
nhận xã hội và lịch sử tinh tường hơn thời kỳ của Mác thì sao xứng đáng là những
lớp con cháu của Mác? Những điều thú vị là ở chỗ việc nhìn nhận lại một số điểm
trong học thuyết của Mác không làm giảm đi sự tôn kính của chúng ta đối với
Mác. Chúng ta hãnh diện đã có Mác là một người khổng lồ nhân từ cho ta được
phép đứng lên vai.
Những hoài nghi mới là
điều kiện cần, chưa là điều kiện đủ. Hoài nghi có thể dẫn đến đúng hơn, cũng có
thể dẫn đến sai hơn. Nếu lấy cớ hoài nghi của Mác để bổ sung, để nâng cao, thậm
chí để cứu học thuyết Mác khỏi rơi vào sự tầm thường như có người đã nói, mà
đưa thêm vào những quan điểm thiếu khoa học, thiếu thực tế, đầy ý chí chủ quan
của mình thì lại càng tai hại hơn.
Vấn đề đặt ra quá lớn, tầm
suy nghĩ của một người lại quá nhỏ, khuôn khổ một bài viết lại càng nhỏ hơn,
thiếu sót là điều không tránh khỏi. Nhung chúng tôi thiết nghĩ sẽ không phải là
vô ích nếu chúng ta chân thành, nếu chúng ta nói thật. Nhiều người nói thật sẽ
dẫn đến sự thật. Điều quan trọng là tìm được cái gốc của những sai lầm. Tuy từ
đó đến chỗ xác định được cách đi đúng đắn cũng không dễ dàng (và vấn đề này
không phải là nội dung đề cập của bài viết này), nhưng khi cái gốc của sai lầm
đã được phơi bày thì cái hướng đúng cũng tự nhiên đã lộ ra rồi.
Alexandr Bovin, nhà phân
tích chính trị của tờ Izvestia (Liên xô), sau khi nói rõ quan điểm kiên quyết
chối bỏ loại xã hội chủ nghĩa quan liêu, thiếu thốn triền miên, xuống cấp những
giá trị đạo đức, thay tự do bằng sự trấn áp dốt nát... đã nêu ý kiến về cách
sửa chữa là : tất cả các đoạn trên con dấu toán học cần phải đổi ngược lại!
(tuần tin thanh niên. 8-8-1988).
Và nếu như trên trang giấy
đã đổi ngược các dấu toán học thì trên đường đi lẽ nào không phải quay ngược
các tấm biển chỉ đường.
Nhân loại, như lịch sử đã
từng chứng minh, rốt cuộc vẫn dắt tay nhau đi chung trên một con đường, con
đường tiến hoá, thêng thang, dưới những tấm biển chỉ đường của trí tuệ!
Ngày 2-9-1988
Tú Xuân Hà Sỹ Phu
(1), (2), (3) Khái niệm
duy lý ở đây không hoàn toàn trùng với khái niệm duy lý của Descartes. Những
chữ duy lý, duy tín, duy lợi là những thuật ngữ riêng của tác giả.
Dắt tay nhau trong một cuộc tranh luận
kỳ lạ
Có lẽ chưa có cuộc tranh
luận nào kỳ lạ như cuộc tranh luận quanh bài Dắt tay nhau, đi dưới những tấm
biển chỉ đường của trí tuệ của tôi, mặc dù trong đó nghĩ mười mới viết được
một. Suốt một năm rưỡi trời các giáo sư triết học, các nhà chính trị, tuyên
huấn... của Viện Triết, trường Nguyễn Aí Quốc, ban Văn hoá Tư tưởng Trung ương,
báo Nhân dân, báo Quân đội nhân dân... đã viết liền mấy chục bài và sách, tập
trung phê phán một bài tiểu luận mà bài này chỉ được truyền tay chứ không được
phép in ở đâu cả. Mấy chục võ sỹ ra sân khấu, đấu rất sôi nổi với một địch thủ
chỉ được phép ở bên trong hậu trường. Trong cuốn nếu cao tính chiến đấu, chống
mọi hoạt động về văn hoá tu tưởng ban Văn hoá Tư tuởng Trung ương đã dành hầu
hêt các trang để chỉ trích những nội dung được trích dẫn một cách rời rạc từ
bài Dắt tay nhau... . Thậm chí trong cuốn giới thiệu Dự thảo Cương lĩnh của Đại
hội 7, uỷ viên Bộ Chính trị Đào Duy Tùng cũng đề cập tới bài đó như một ví dụ
cụ thể duy nhất làm đối trọng. Có bài viết đã gọi tôi là kẻ phát ngôn trong
bóng tối, cao ngạo hơn cả During , có bài viết doạ sẽ có biện pháp đối xử với
tôi một cách đúng mực, theo như yêu cầu đòi hỏi của quy luật đấu tranh giai cấp
(!). Và thực tế thì bài Dắt tay nhau... đã không phải không gây phiền phức cho
tôi và nhà văn Dương Thu Hương trong những ngày được tiếp kiến bộ nội vụ.
Đấy là mặt không vui,
nhưng câu chuyện lại cũng có mặt vui của nó. Bài ấy tôi viết hai năm trước khi
có những sự cố ở Đông Âu và Liên xô thực tiễn thế giới sau đó đã chứng thực cho
dự đoán của tôi, các tấm biển chỉ đường lớn nhỏ đã được quay lại hết. Việc đại
hội 7 lấy TRI TUÊ làm khẩu hiệu hàng đầu (mặc dù trước đó nhiều nhà lý luận đã
khẳng định rằng chủ nghĩa Mác Lênin chính là trí tuệ tối cao của nhân loại rồi,
nói trí tuệ nữa là thừa!)và không nói đến chuyên chính vô sản nữa thì điều ấy
thực sự đã phù hợp với nội dung chính trong bài viết của tôi. Tôi lấy làm vui
lắm, và tin rằng những nội dung khác của bài viết cũng sẽ chuyển rất nhanh từ
trạng thái gây dị ứng, phải chống đến cùng, sang trạng thái mặc nhiên tự tại,
biết rồi, khổ lắm, nói mãi, !
Là người làm công tác khoa
học, dốt về chính trị, tôi chỉ nói những điều về nhận thức khoa học, những vấn
đề có tính nguyên lý. Trong khoa học tự nhiên, Mác duy vật và biện chứng bao
nhiêu thì khi vận dụng vào xã hội Mác lại duy tâm và siêu hình bấy nhiêu. Ai có
thể phủ định được chủ nghĩa Mác, nếu không phải là phần này của tư tưỏng Mác đã
xung đột với phần kia của tư tưởng Mác! Nhà duy vật biện chứng trứ danh trong
khoa học ấy lại đồng thời là đại biểu cuối cùng và đặc sắc nhất của trào lưu xã
hội chủ ngĩa không tưởng mà Mác đã chống đến cùng.
Nhân loại đã phải trả giá
cho sự không tưởng của mình và đã vượt được qua nó, đó là một điều vĩ đại.
Nhưng vượt lên trên máu và nước mắt, nói theo cách nói của Mác, cuối cùng thì
nhân loại vẫn muốn từ giã quá khứ của mình một cách vui vẻ. Chỉ có điều là
trong màn hài kịch lớn này, lịch sử sẽ chọn ai làm tên lính cuối cùng rút lui
khỏi sân khấu!...
Tháng 2-1993
Hà Sỹ Phu
Hà Sỹ Phu
Chia
tay ý thức hệ
Phần 1
Triết
học Mác-Lê Không có phương pháp luận
Trước cảnh đổ vỡ ý thức
hệ, một số nhà lý luận Mác xít thức thời nhất đã chịu lùi tới cỡ này. Cứ cho
mọi điều đã nói là sai hết đi, thì Mác-Lê vẫn còn để lại cho nhân loại một tài
sản tư tưởng vô giá là phương pháp luận Mác xít-Lêninnít.
Tôi thấy nên nhận thức lại
rằng: Cứ cho mọi điều Mác-Lê đã nói là đúng hết đi (để khỏi cần kiểm tra) thì
vẫn còn một sai lầm không thể chối cãi là sai lầm về phương pháp luận!.
(Trước khi trình bày những
nội dung tôi xin phép được lưu ý người đọc mấy điểm:
- Việc phân tích Mác-Lênin
của tôi dù triệt để đến đâu cũng không nhằm mục đích đánh đổ Mác-Lênin, vì tôi
hiểu trên nhận thức toàn nhân loại thì Mác-Lê là cái đã đổ rồi. Vả lại lý luận
mà lúc nào cũng nhằm để phục vụ chính trị thì không còn tỉnh táo để thấy quy
luật khách quan, lý luận ấy có thể phục vụ một sự nghiệp chính trị nào đó rất
đắc lực nhưng dùng xong người ta vứt nó đi. Bởi vậy việc phân tích Mác-Lê hoặc
phân tích Khổng Mạnh hay các tôn giáo ở đây chỉ nhằm lấy cái điểm tựa để trình
bày những tư duy mới.
Vì mục đích ấy, chưa cần
tách bạn Mác với Ăng-ghen, Lênin, Xtalin... hay những người khác, khi ta đã
biết tất cả vẫn thuộc một dòng, và sự chuyển hóa từ người nọ sang người kia, về
cả những điều kế thừa và sai biệt, đều là hệ quả tất yếu của cái gốc ban đầu.
Mặt khác do tính không nhất quan trọng hệ lý luận Mác xít nên khi khảo sát một
nguyên lý cũng không cần, và không nên động vào đó tất cả những biện giải về
sau thiên kinh vạn quyển, xuôi ngược đủ màu, có tính chất chữa cháy, có khi
chống lại chính nguyên lý đó.
Các nhà lý luận Mác xít
thường cứng nhắc, không cho ai cựa quậy ra ngoài khuôn mẫu, nhưng khi ở thế bị
phê phán thì lại viện dẫn từ trong chủ nghĩa của mình tính linh động mềm đến
mức có thể uốn được.
Chúng ta sẵn sàng linh
động nên chỉ xoay quanh cái gốc nguyên lý thôi. Nếu cái nguyên lý cũng linh
động nốt thì còn gì nữa mà lý luận.
Trước hết, chúng ta cần
nhận biết thế nào là đúng, thế nào là sai. Còn cái sai đúng ấy thuộc về ai, đó
là công việc các nhà nghiên cứu lịch sử tư tưởng và chính trị chuyên nghiệp.
Tuy về nội dung, không tán
thành thứ triết học thực dụng nhưng trong cách trình bày, trừ phần Vật chất và
ý thức vẫn còn dài, nói chung tôi giữ cách viết vắn tắt: Hỏi và Đáp.
Khi tìm quy luật khách
quan, người khoa học không được định hướng trước theo ý muốn của nhà chính trị.
Nhưng khi nhận thức khách quan ấy đã đi đến kết luận rồi, thì người khoa học
cũng như mọi người khác hoàn toàn có quyền ứng dụng kết luận Khoa học ấy vào
thực tế đời sống, trong đó có đời sống chính trị, mà không sợ mâu thuẫn với
tính khoa học khách quan. Có làm được cả hai điều ấy hay không là tùy thuộc khả
năng phân thân của người khoa học. Tôi đã cố gắng và tự tin vào khả năng phân
thân ấy của mình, còn kết quả đến đâu xin người đọc phân xét.
Trước hết hãy đẩy nhận
thức tới tận cùng xem chân lý ra sao, chân lý không thể uốn. Sau đó ứng xử với
thực tế thế nào lại là chuyện mềm dẻo. Không sợ nhận thức rành mạch thì thái độ
sẽ cực đoan. Trái lại có hiểu thấu đáo mới tránh được cực đoan và tùy tiện.
Mục đích bài viết của tôi
trước hết là trình bày nhận thức.
Mong muốn dùng nhận thức
ấy để làm tốt xã hội trước mắt lại là chuyện sau. Nếu chỉ nhằm những mục tiêu
thực tế trước mắt ấy thì không ai dại dột đi theo con đường dài dòng từ vật
chất và ý thức trở đi làm gì cho mất thì giờ vô ích. Con đường kinh tế và chính
trị nhanh gọn hơn nhiều!)
1) Hỏi:
Nên đánh giá khái quát thế nào về phương pháp luận Mác xít?
Đáp: So
với những dòng triết học Duy tâm và Siêu hình trước đây thì quan điểm Duy vật
Biện chứng hiển nhiên là hướng triết học tiến bộ xét cả vế tính khoa học, tính
nhân bản và tính thực tiễn. Trong đó đâu là phần Mác kế thừa, đâu là phần Mác
sáng tạo, đâu là điểm thống nhất và sai biệt giữa Mác-Ăng ghen... đều đã được
nghiên cứu khá đầy đủ.
Điều cần nói là: Ngay
trong cái gốc Duy vật và Biện chứng Mácxít rất tiến bộ ấy đã có những kẽ hở
mang mầu sắc phân tích cực đoan, duy tâm chủ quan, tách rời, máy móc, mà quan
niệm vật chất và ý thức là một ví dụ điển hình. Càng đem vận dụng thì cái
khuyết điểm ấy cứ lớn mãi ra, từ chỗ tưởng như vô hại đến chỗ trở nên trầm
trọng không cứu vãn được nữa. Cái tiến bộ khi xưa nay không còn tiến bộ.
Người đầu tiên chịu tác
hại của khuyết điểm ấy chính là Mác và Ăng - ghen, khi các ông phát triển tinh
thần duy vật và biện chứng của mình vào xã hội để hình thành nên phương pháp
luận duy vật lịch sử. Có thể nói Duy vật lịch sử đã phân lại duy vật biện
chứng. Duy vật biện chứng về cơ bản là tích cực, duy vật lịch sử về cơ bản là
tiêu cực.
Trên đà trượt ấy, những
người Mácxít về sau đã rơi tuột vào một cõi vừa duy tâm giáo điều vừa duy vật
thực dụng, lại mang thêm hội chứng thần kinh phân lập và phát xít. Càng về sau
triết học Mácxít càng chìm sâu vào con đường chính trị hóa, đại chúng hóa và
tôn giáo hóa. Tha hóa đến nỗi không còn là triết học. Về mặt chính trị thì chủ
nghĩa Mác đã chịu các quá trình Lênin hóa, Xtalin hóa, Mao hóa... và Việt Nam
hóa nữa.
Một nhà Mác học than phiền
với tôi rằng chỉ tại người ta không trung thành với lý thuyết của Mác. Tôi nói:
Ngay cả Mác cũng không thể trung thành với một lý thuyết như thế. Lý thuyết ấy
như một cô gái cực đẹp nhưng lẩn thẩn, chắc chắn sẽ được người ta vồ lấy và tất
yếu sau đó là sự phản bội.
2) Hỏi:
Nghĩ gì về phạm trù vật chất và ý thức?
Đáp: Đây
là vấn đề cơ bản của triết học mà các triết gia vẫn dùng để phân biệt triết học
duy vật với triết học duy tâm. Các triết gia Mácxít cho mình là đúng khi khẳng
định Vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau. Vật chất quyết định ý
thức. Vật chất phản ánh vào ý thức, sau đó ý thức tác động trở lại vào thế giới
vật chất... v... v.
Triết học ngày nay còn
phải thảo luận tiếp tục về vấn đề quan niệm này.
Quan niệm ấy rõ ràng vẽ ra
hai thế giới. Càng phản ánh vào nhau, càng tác động vào nhau mãnh liệt bao
nhiêu, cái thế giới thứ nhất càng quyết định cái thế giới thứ hai bao nhiêu thì
điều ấy càng khẳng định đó là hai chứ không phải là một!
Tin vào sự tồn tại vững
chắc của cái cặp vật chất và ý thức ấy các ông đã dùng cái này làm chỗ dựa để
định nghĩa cái kia một cách lẩn quẩn: ý thức của con người là cái tồn tại (tức
vật chất) được ý thức, còn cái vật chất (tức tồn tại) kia thì chính là cái thực
tại khách quan được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh... .
Như vậy, nói cho dễ hiểu
thì ý thức là cái vật chất đã được phản ánh vào trong đầu óc con người, còn vật
chất thì là cái tồn tại bên ngoài mà ý thức đã phản ánh. Sự phản ánh ấy ngày
càng tiểm cẩn với sự thật.
Tinh thần cơ bản của phản
ánh luận Mácxít là vậy. Cứ song song như một người thật và cái bóng của hắn ta
trên tường. Bóng là cái hình của hắn in vào tường, còn hắn là cái bản thể mà
cái bóng kia phản ánh. Han ta có trước, cái bóng có sau, hắn quyết định cái
bóng của hắn... v... v (chỉ có điều khác là cái bóng ở đây là ý thức thì nó
năng động, nó có thể vươn ra khỏi tường và tu sửa lại hình dung của hắn ta).
Phạm trù về cái cặp ý thức
và vật chất ấy bắt nguồn từ một ý niệm rất rành mạch nhưng rất sơ khai khi ta
phân biệt cái bên trong với cái bên ngoài, phân biệt cái ta với cái khác ta,
phân biệt con người có ý thức với cái thế giới vật chất vô ý thức, phân biệt
chủ thể nhận thức với đối tượng bị nhận thức, phân biệt vật chất với tính thần,
phân biệt quy luật khách quan với ý chí chủ quan.
Trong trực cảm, tất cả
những ranh giới ấy tồn tại hiển nhiên đến mức chẳng cần bàn cãi, song thực ra
tất cả những ranh giới đó là vớ vẩn cả, khẽ nhích vấn đề sang một bình diện
khác lập tức những ranh giới ấy biến mất.
Nếu đã hiểu thuộc tính
quan trọng nhất của ý thức là tính phản ánh và tính tác động thì phải biết rằng
thuộc tính ấy là của vật chất nói chung, biểu hiện ở tất cả mọi mức độ từ thấp
lên cao. Cục sắt và thanh nam châm, vật nọ phát tín hiệu và phản ánh vào vật
kia và tác động trở lại vào vật kia. Giữa phân tử ôxy và hydro cũng như vậy...
chúng nhận thức lẫn nhau và tác động lẫn nhau. Đã đành quan hệ ấy còn rất đơn
giản nhưng từ cái đơn giản ấy đến ý thức của con người đã có vô vàn mức độ tiến
hóa trung gian nối liền lại. Không thể tách ý thức của con người ra khỏi khả
năng phản ánh và tác động của thế giới vật chất nói chung. Không phải đến con
người thì cái ý thức thiêng liêng ấy mới đột nhiên xuất hiện. ý thức không phải
là chuyện riêng của thế giới con người (nếu mang nghĩa hẹp ấy thì nó chỉ tương
ứng với quy mô xã hội thôi, sao có thể đem đọ với quy mô vật chất được?)
ý thức tinh thần chính là
thuộc tính chung của thế giới vật chất. Không thể có cái thứ vật chất không có
tinh thần, cũng không có cái thứ tinh thần ngoài vật chất: Tách thành vật chất
và tinh thần để rồi cho rằng cái này có trước, cái kia có sau tức là tách vật
chất ra khỏi chính thuộc tính của nó thì vô nghĩa biết chừng nào! Thử hỏi thanh
nam châm và cái thuộc tính hút sắt của nó thì cái nào có trước? Vật chất và
tính phản ánh của nó cũng vậy.
Không thể có vật chất và ý
thức, chỉ có thế giới vật chất đang vận động, đang tự ý thức, tự phản ánh, tự
tác động phần này vào phần kia và tự biến đổi. Con người của ta lẫn ý thức của
ta cũng hoàn toàn thuộc vào cái thế giới ấy rồi. Không phải cái xác của ta thì
thuộc thế giới vật chất, còn ý thức của ta lại như cái gì đó đứng bên ngoài để
chụp ảnh...
Và như vậy thì cả triết
học duy tâm lẫn triết học duy vật đều đã bị thời đại của chúng ta vượt qua rồi.
Muốn cho nhận thức luận
được sáng tỏ trước hết phải đưa vào đó khái niệm lát cắt hay mặt cắt mà nội hàm
của nó là cái ranh giới giả tạo mà con người bịa ra để làm một phương tiện nhận
thức thế giới. Đứa trẻ nhìn cái cái bánh trưng chỉ thấy cái bề ngoài, nó cắt
đôi cái bánh ra và từ đó trí tưởng tượng của nó về cái bánh đầy đủ hơn trước, thấy
cả ruột bánh bên trong, nhưng trong nhận thức của nó cái mặt cắt nhân tạo kia
phải được cắt đi. Cái bánh vẫn nguyên vẹn mà vẫn bộc lộ được cái bên trong, đó
là sự khác nhau giữa nhận thức và thực nghiệm. Mỗi kiểu lát cắt cung cấp thêm
cho ta những mẫu nhận thức khác nhau, nhưng rồi tất cả các lát cắt đều cần được
xóa đi khỏi nhận thức, nếu không nó là sai lệch đối tượng ta muốn nhận thức.
Ranh giới giữa vật chất và
ý thức cũng là một lát cắt nhân tạo và thông minh mà ta bịa ra, không hề có
thật bao giờ.
Ranh giới giữa ta và ngoài
ta, ranh giới giữa chủ thể tác động và đối tượng hay kết quả tác động... cũng
chỉ rất tạm thời, rất tương đối, suy cho cùng cũng đều giả tạo.
Cái ta là chủ thể nhận
thức nhưng đồng thời cũng đang bị cái bên ngoài nhận thức. Đừng tưởng mình là
đại diện cho ý thức đang đem qui luật đi cải tạo thế giới vật chất mà quên mình
đang là cái sản phẩm rất vật chất đang là nạn nhân, nạn vật một cách rất vô ý
thức. Đừng tưởng mình là cái bên ngoài mà quên mình cũng đồng thời là cái bên
trong.
Tất cả cứ đổi chỗ cho nhau
liên tục không lúc nào dứt. Sắc đấy, mà thoát lại thành Không và ngược lại. Có
nghĩa đấy mà thoắt thành vô nghĩa. Đương nhiên sự hoán đổi ấy không phải lung
tung, mỗi biến đổi có điều kiện của nó.
Nói khác đi, vật chất, ý
thức đều chỉ là sản phẩm trong ý niệm, mà ngay trong ý niệm chúng cũng đổi chỗ
cho nhau liên tục. Chia làm sao được.
Về điều này, theo hiểu
biết của tôi thì Mác nhận thức sâu sắc hơn so với Ăngghen và Lênin, song cũng
chưa đủ để bứt phá, nên cứ quanh quẩn để cuối cùng vẫn bị cuốn vào một quyết
định luận Mác xít mang nhiều tính chất phân ly máy móc và cực đoan. Tôi trộm
nghĩ nếu Mác được ảnh hưởng nhiều hơn của lối tư duy tổng hợp Đông phương (đừng
lầm với chất phong kiến và cù nhầy của Đông phương) và quy luật tiến hóa Sinh
học thì tình hình có thể khá hơn. Song lịch sử làm gì có chữ nếu!
Chẳng hạn, nếu vậy... thì
làm sao Mác có thể tưởng tượng ra một Đảng tiên phong với một ý thức trong suốt
như pha lê và kiên định như kim cương, để nhân loại có thể trao hết vận mệnh
của cái thế giới vật chất ngoắt ngoéo đầy sự tha hóa bẩn thỉu này cho Đảng dìu
dắt tới thiên đường Cộng Sản xa xôi kia? Nếu thực sự duy vật và biện chứng hẳn
các ông phải hiểu như thế là gửi trứng cho ác, là mỡ treo miệng mèo, nửa đường
nó không sài luôn thì làm gì? (Bất giác tôi nghĩ tới chuyện Mã Giám Sinh hộ
tống Kiều).
Tưởng quá duy vật khách
quan mà thành duy tâm chủ quan!
3) Hỏi:
Tại sao nói Chủ nghĩa Duy vật Lịch sử mang tính chất Duy tâm và Siêu hình?
Đáp: Nói
cách khác: Chủ nghĩa Duy vật lịch sử Mácxít đã chống lại tinh thần Duy vật Biện
chứng. Cái nhìn của Chủ nghĩa Duy vật lịch sử Mácxít đối với con người và xã
hội luôn cắt rời, cực đoan và phiến diện. Ví dụ:
+ Con người có thuộc tính
cá nhân và thuộc tính xã hội thì về lý luận Mác-Lê để cho con người xã hội nuốt
chửng mất con người cá nhân để trong thực tế tạo tiền đề cho một vài cá nhân
nuốt chửng xã hội.
+ Đảng Cộng Sản cũng như
Con người, có mặt phải mặt trái, mặt thiện mặt ác thì Mác-Lê chỉ thấy mặt
thiện. Trong khi đó xã hội tư bản cũng có hai mặt thì Mác-Lê chỉ thấy mặt trái.
+ Nhà nước bao giờ cũng có
hai mặt công ích và tư lợi, nhưng Mác-Lê chỉ nhìn thấy bản chất tư lợi xấu của
Nhà nước nên phấn đấu làm tiêu vong Nhà nước, kết quả là cái Nhà nước quá độ mà
các ông tạo ra lại quá nhiều tính tư lợi mà không ai làm tiêu vong nó được.
(trừ khi xã hội ấy nhất tề từ chối chủ nghĩa Mác-Lê như Liên Xô và Đông Âu).
+ Sở hữu tư nhân hay sở
hữu tập thể đều có hai mặt tích cực và tiêu cực, nhưng Mác-Lê chỉ nhìn thấy mặt
tiêu cực của tư hữu và chỉ nhìn thấy mặt tích cực của công hữu, nên phá tư hữu,
lập công hữu. Hệ quả là tạo điều kiện cho một số người chiếm của công thành của
tư và đang trở thành những nhà tư sản thực thụ.
+ Sự chiếm hữu trong xã
hội như cái sào huyệt mafia gồm hai buồng: chiếm hữu tư liệu sản xuất và chiếm
hữu quyền lực. Nhưng Mác-Lê chỉ nhìn thấy một kẻ thù là chiếm hữu tư liệu sản
xuất, bèn nâng cái quyền lực lên để dùng nó diệt cái chiếm hữu tư liệu sản
xuất. Ai ngờ cái chiếm hữu quyền lực còn tai ác gấp vạn lần.
+ Vấn đề giá trị thặng dư
cũng vậy. Cũng có mặt phát triển kinh tế vào tạo nguy cơ mất công bằng. Nhưng
Mác-Lê chỉ nhìn thấy mặt bóc lột của giá trị thặng dư mà không thấy mặt tích
cực và hợp lý của nó. Kết quả là bây giờ các Đảng viên vừa được khuyến khích
làm giầu (thực chất là bằng cách bóc lột giá trị thặng dư chứ gì nữa), lại vừa
phải nói khéo để khỏi làm tủi vong linh tác giả Tư bản luận.
+ Vấn đề đấu tranh giai
cấp cũng có 2 mặt, mặt làm đối trọng tích cực để làm xã hội phát triển và mặt
phá phách làm nhiễu xã hội. Nhưng Mác-Lê tâng bốc đấu tranh giai cấp thành động
lực duy nhất thúc đẩy tiến hóa để có sức mạnh mà giành chính quyền, đến lúc
mình cầm quyền rồi, quan hệ giai cấp vẫn còn đó thì xử lý với chuyện đấu tranh
giai cấp là động lực của tiến hóa ra sao để cái ghế của mình được yên? Cái
thuyết đấu tranh giai cấp và chống kinh tế thị trường của cụ Mác bấy giờ lại
làm ta kẹt quá, vậy thì có phải mềm đến mức có thể uốn được. Nếu bây giờ cụ Mác
đang bị uốn, và xem chừng khi cụ Mác chịu uốn không nổi nữa thì đến lượt cụ Hồ.
+ Chủ nghĩa Mác-Lê nói
Trong xã hội có giai cấp thì đấu tranh giai cấp là động lực tiến hóa. Nhưng xã
hội có giai cấp chỉ là một giai đoạn trong lịch sử loài người (chính Mác-Lê đã
nói thế). Vậy xin hỏi: Trong toàn bộ lịch sử loài người nói chung, kể cả khi có
giai cấp và khi không có giai cấp thì động lực của tiến hóa nói chung là gì?
Bởi chưa quan tâm đúng mức
đến cái toàn bộ đã quyết đoán cái cục bộ nên tiến trình cách mạng Vô sản lên
chủ nghĩa Cộng Sản cứ như một ngoại lệ ngang phè phè trật khớp ra khỏi lịch sử.
Ăngghen lại biện bạch điều đó bằng tính cách mạng đoạn tuyệt một cách triệt để
nhất (!)
Nếu biết nhìn lịch sử một
cách thật biện chứng như một quá trình thống nhất ắt các ông phải thấy trí tuệ
mới là động lực (động lực mang tính khách quan, khác với động cơ mang tính chủ
quan), và không dựng ra một học thuyết đấu tranh giai cấp rum beng như thế.
+ Tính cực đoan phiến diện
ấy khi thì gây ra bệnh quá tả như trên vừa nói, khi thì gây bệnh hữu khuynh.
Đấu tranh sinh tồn (trong đó đấu tranh giai cấp là một biểu hiện) là quy luật
phổ biến bao giờ bớt được. Vậy mà các ông định làm một cuộc chiến đấu cuối cùng
là nghĩa làm sao? Dựa vào lý tưởng hữu khuynh về đấu tranh giai cấp ấy những
người cầm quyền Cộng Sản đã kìm hãm tối đa sự đấu tranh giai cấp của những giai
cấp và tầng lớp lao động mới.
+ Công trình lớn nhất của
Mác là tập Tư bản, rất công phu, rất nhiều kiến thức nhưng điều mấu chốt thì
lại không giúp gì cho việc giải bài toán xã hội. Chẳng những thừa mà còn có hại
cho mục đích này bởi nó gây sự hiểu lầm, tưởng rằng tội lỗi sinh ra là ở chỗ có
giá trị thặng dư. Nhà triết học đập vào giá trị thặng dư thì khác nào người
công nhân trút căm thù vào máy móc.
Tách bài toán phân chia
sản phẩm ra khỏi bài toán phân chia quyền lực và bài toàn phát triển sản xuất
thì làm sao tìm ra đáp số cho bài toán xã hội?
Nhiều người vẫn nghĩ rằng
việc đề cao yếu tố như trên và việc tìm ra một lực lượng vật chất là giai cấp
công nhân là bằng chứng về tính duy vật của chủ nghĩa. Song, như đã phân tích
trong phần vật chất và ý thức nếu duy vật một cách phiến diện cắt rời, mang
tính định hướng chủ quan và lãng mạn thì lại chạy sang duy tâm.
Nói duy vật, duy tâm là
dùng hệ ngôn ngữ chúng ta đã quen dùng. Theo ý riêng tôi trong hệ tư duy mới
thì ranh giới duy vật duy tâm không thể tồn tại như ta quan niệm, và khi ấy vấn
đề sẽ được diễn đạt một cách khác.
Tóm lại toàn bộ nhãn quan
duy vật lịch sử Mác xít là một nhãn quan phi biện chứng, đầy tính duy tâm chủ
quan. Những điều này tôi đã phân tích trong một tài liệu có tính chất lý luận
cơ bản: Đôi điều suy nghĩ của một công dân (ĐĐSN...) (1).
Nhiều luận lý Mác xít là
những tam đoạn luận máy móc, xuất phát từ một tiền đề chủ quan nên kết thúc phi
lý. Ra đời trong giai đoạn chưa chín của Văn minh Công nghiệp, phương pháp luận
Mác xít đã mang nhiều dấu ấn của bệnh Công nghiệp, công nghiệp hơn cả Công
nghiệp, thể hiện ở xu hướng thích quy mô lớn, thích đồng loạt, thích cơ chế một
cách máy móc (thậm chí biện chứng một cách máy móc, uyển chuyển một cách máy
móc), thích kinh tế, cực đoan hóa tính vật chất, cực đoan hóa sự phân tích và
loại trừ.
Nói công nghiệp hơn cả
Công nghiệp là vì Công nghiệp sản xuất đại trà trên cơ sở sản xuất chính xác
từng đơn vị sản phẩm. Còn Mác quan tâm đến tổng thể những quan hệ xã hội, quan
tâm giải phóng xã hội, mà vi phạm sự giải phóng cá nhân (nên coi nhẹ vấn đề
Quyền Con người, vì nghĩ rằng Xã hội là đã có Con người nằm trong đó rồi!) (2).
Nói công nghiệp hơn cả
Công nghiệp là vì trong quy trình vận hành của Công nghiệp bao giờ cũng phải có
cơ chế ngược (feedback) để tự kiểm tra, tự khống chế, tự dừng, tự sửa chữa...,
nhưng Chuyên chính Vô sản là bộ máy chỉ vận hành theo tiêu chuẩn và hoàn toàn
không có những cơ chế ngược ấy nên lúc đầu thì ổn mà về sau quyền lực cứ bành
trướng vô hạn độ đến nổi người thiết kế ra nó cũng trở thành nạn nhân.
Những điều này cùng với
những đặc điểm mang tính lãng mạn và phong kiến (sẽ phân tích sau) chắc cũng đủ
cho nhận định rằng Chủ nghĩa Xã hội Mácxít chỉ là đại biểu cuối cùng của dòng
các chủ nghĩa Xã hội không tưởng.
Hệ lý luận Mác xít càng
phát triển càng tự mâu thuẫn, càng xa thực tế và càng lúng túng, bởi xây dựng
trên những tiền đề và phương pháp luận chủ quan, phiến diện. Nói đến sai lầm
của học thuyết này thì sai lầm đầu tiên và bao trùm hết thảy, chính là sai lầm
về phương pháp luận! Đảng Cộng Sản buộc phải thừa nhận những sai lầm khác nhưng
lại kiên quyết bảo vệ phương pháp luận (1). Xem cái cung cách mà cả một đội ngũ
các nhà chính trị và lý luận Mác xít bây giờ đang hì hục nai lưng ra vá víu,
che chắn, người ta không khỏi phì cười vì thấy hiện ra một đám anh hề, cố sức
lau nhà cho khô nhưng lại cứ để cái rô-bi-nê phía sau ồ ồ phun nước!
4) Hỏi:
Nhận định gì về tính Tiền phong và những dự đoán Mác xít?
Đáp:
Tính khoa học, tính Tiền phong và khả năng Dự đoán là một bộ ba liên hoàn. Nếu
có tính Khoa học thật sự, ắt có tính Tiền phong và khả năng Dự đoán. Ngược lại
nếu Dự đoán luôn luôn sai hay chủ yếu là sai thì bản chất khó lòng là Tiền
phong và Khoa học được.
Một khi chủ nghĩa Mác-Lê
đã tự xác định mình là Chủ nghĩa Xã hội Khoa học thì việc tự xưng là Đảng Tiền
phong và tiến hành những Dự đoán như đinh đóng cột cũng là hợp với tư duy lôgic
và phép biện chứng tự nhiên.
Nhưng ngược lại, nếu những
dự đoán như đinh đóng cột ấy đổ thì đương nhiên không ai dám nhận mình là Khoa
học và Tiền phong nữa, vì đó cũng là lôgic tự nhiên và là sự tự trọng tối
thiểu.
Người Cộng Sản rất tài
giỏi trong thực tế tranh đấu trong đó có sự ứng dụng khoa học thật sự, do đó
những dự đoán chiến thuật thường là đúng, nếu không thì sao thắng được. Nhưng
dự đoán chiến lược, lại là một vấn đề khác hẳn.
Dự đoán Mác xít có tính
chiến lược bao trùm nhất, kết tinh của tư duy Cộng Sản toàn thế giới là tuyên
bố của 81 Đảng Cộng Sản về nội dung thời đại : Thời đaị ngày nay là thời đại
quá độ từ Chủ nghĩa Tư bản lên Chủ nghĩa Xã hội trên phạm vi toàn thế giới mở
đầu bằng Cách mạng Xã hội chủ nghĩa tháng 10 vĩ đại. Là sự sụp đổ của chủ nghĩa
Đế quốc và sự tan rã của hệ thống thuộc địa là sự xuất hiện ngày càng nhiều dân
tộc tiến lên con đường XHCN. Giai cấp công nhân Quốc tế, mà đại diện là những
Đảng Mácxít Lêninít chân chính (đang đứng ở vị trí trung tâm của Thời đại mới
đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa Xã hội.
Đảng Cộng Sản Việt Nam còn
đi xa hơn không phải dự đoán nữa mà đã nhìn thấy ba dòng thác : dòng thác tan
rã của chủ nghĩa Tư bản, dòng thác sinh sôi của chủ nghĩa Xã hội và dòng thác
của thế giới thứ ba.
Đối chiếu với thực tế ngày
nay liệu còn gì để bình luận?
Hãy chú ý rằng đây là trí
tuệ tập trung của cả thế giới Cộng Sản, trí tuệ ở vào lúc khá nhất của phong
trào Cộng Sản (khá nhất vì trong đó tính giai cấp kiêu ngạo cực đoan phi thực
tế đã được điều chỉnh đi rất nhiều), khá đến mức bị những người Cộng Sản khác
lên án là xét lại mà còn sai đến mức lộn ngược như thế thì hệ thống lý thuyết
ấy ở dạng chân chính còn khủng khiếp biết chừng nào?
Vậy mà đến hôm nay, những
trí thức gọi là tiên tiến nhất của thế giới tư duy Cộng Sản vẫn chưa nhìn ra
được cái sai từ nơi gốc rễ, vẫn cứ xưng là Khoa học, là Tiền phong thì đủ biết khả
năng ngu hóa của lý thuyết ấy đã đến độ tuyệt hảo vậy.
Có người không đồng ý với
tôi, lại bảo Người ta chẳng dốt đâu, người ta biết cả đấy!
Nếu vậy thì còn kinh khủng
hơn. Đẩy được trí tuệ ra khỏi đầu những người vốn thông minh đã là điều tài
tình, thì việc đẩy được lương tâm và danh dự ra khỏi những trái tim vốn đầy
tính lương thiện và lý tưởng quả là một siêu ma lực đáng để loài người muôn đời
nghiền ngẫm.
Kẻ làm chính trị mà dùng
được ngu lực hay ma lực này thì lo gì không vô địch?
Và người vô địch không bao
giờ ngu dốt, trái lại, tinh khôn tuyệt vời.
Thông minh và ngu dốt luôn
song song trong mỗi con người, bởi lượng trí khôn mà Tạo hóa ban cho mỗi con
người bình thường gần là một hằng số như nhau (Trừ những người bất thường thì
không kể. Chỉ số thông minh IQ cũng chỉ là một mặt của trí khôn thôi). Dùng hết
tinh khôn cho việc này thì ngu dốt trong việc khác. Vô địch trong điều kiện này
đại bại trong điều kiện khác. Thoạt nhìn thì Chân lý mang tính cù nhầy.
Nhưng nếu lấy sự Tiến hóa
và Hạnh phúc chung của cả Nhân quần làm chuẩn thì Chân lý có những tiêu chuẩn
xác định không thể lộn ngược.
Trong cuộc chiến tranh Vệ
quốc, Đảng Lao Động Việt Nam gồm những người yêu nước nhất, dám hy sinh biết tổ
chức và có sách lược nên có vai trò tiền phong thật sự. Nhưng bước vào giai
đoạn cách mạng tức cuộc đấu tranh giai cấp nhằm mục đích tối hậu là xây dựng
chủ nghĩa Cộng Sản thì tình hình dần dần xoay ngược trở lại.
Dựa trên một lý thuyết phi
khoa học thì chủ trương và hành động sẽ chống quy luật, sẽ bị thực tế phủ định.
Bản chất lạc hậu, không tiền phong, nhưng muốn giành vị trí tiền phong thì quy
trình giành lấy tiền phong phải diễn ra theo 4 bước tuần tự:
Bước 1: Thấy cái tiền
phong thật ngược với mình, nên coi là phản động.
Bước 2: Không chống được,
đành buông lỏng, để cái tiền phong thật tồn tại không chính thức.
Bước 3: Thấy cái tiền
phong thật hữu hiệu, hợp lý nên phải làm theo.
Bước 4: Tuyên bố cái tiền
phong thật ấy là do mình khởi xướng.
Trong thực tiễn Cách mạng
Việt Nam, từ việc to việc nhỏ đều có thể dẫn ra vô số sự kiện đã diễn ra theo
kiểu ấy, tức là lếch thếch chạy theo thực tiễn để đoạt lấy tiền phong, từ chủ
trương khoán sản, thị trường tư nhân, tự do luyến ái, y phục thời trang, quan
hệ với người nước ngoài, hòa hợp dân tộc, xóa bỏ hận thù, nhân quyền, pháp trị,
xã hội công dân, tự do lập hội, trí tuệ là động lực..., rồi chẳng bao lâu nữa
sẽ là những thứ mà ngày hôm nay đang coi là phản động, như: từ bỏ Chuyên chính
Vô sản, Dân chủ đa nguyên, tự do báo chí, tự do truyền bá tư tưởng, thông tin
Intermet, tự do xuất bản, hủy hệ thống trường Đảng, nhìn nhận lại bản chất tư
tưởng Mác-Lê, nhìn nhận lại vấn đề tư tưởng Hồ Chí Minh và lăng Hồ chủ tịch,
Đảng đối lập, Tổng thống chế, tự do vận động tranh cử... v.. v... (xin nhắc
lại: nhiều vấn đề ấy đang bị coi là cấm kỵ, nhưng xin chưa thảo luận ở đây).
Ngay những bài viết của
tôi cũng như của nhiều trí thức tiến bộ, hôm nay còn bị thông báo nội bộ coi là
phản động thì rồi đây chắc chắn sẽ được coi là quan điểm của Đảng. Nếu rồi đây
Đảng cũng nghĩ như thế thật thì rất đáng mừng, vì điều quan trọng đối với xã
hội không phải ở chỗ quan điểm ấy là của ai, mà ở chỗ quan điểm tiến bộ ấy được
thực hiện như thế nào, do thực tâm muốn đổi mới vì đất nước hay vì buộc phải
thích nghi để duy trì được quyền lợi của tập đoàn. Và từ đó sẽ phát sinh những
hệ quả rất khác nhau.
Trong những phần sẽ trình
bày sau, có đề cập đến một số Dự đoán mang tính hiện thực và Tiền phong bởi nó
dựa trên tư duy Khoa học thực sự.
-----------------------------------------------------------
Ghi chú:
(1) Hà Sĩ Phu, Nhà xuất
bản TIN, Paris 1993.
(2) Hoàng Văn Hào, Chu
Thành: Quyền con người, quyền Công dân. Khái lược lịch sử và lý luận (Sách:
Quyền Con người trong thế giới hiện đại. Tài liệu tham khảo nội bộ, Viện Thông
tin khoa học xã hội, Hà Nội 1995)
Trích:... Về mặt lý luận,
trong một thời gian dài lý luận về Quyền Con người, Quyền Công dân trong chủ
nghĩa xã hội đã không có quan điểm kế thừa những giá trị Nhân quyền trong lịch
sử... Điều đó thể hiện trong cương lĩnh đường lối của các Đảng cầm quyền cũng
như trong hiến pháp, pháp luật ở các nước Xã hội chủ nghĩa. ... khi các nước
phương Tây dùng ngọn cờ Nhân quyền để tiến công chủ nghĩa Xã hội, các nước Xã
hội chủ nghĩa thường tỏ ra lúng túng, bị động, chỉ đối phó khi bị công kích
đánh đâu đỡ đấy...
Trước đây, ở các nước Xã
hội chủ nghĩa, Quyền Con người ít được nói đến, mặc nhiên đồng nhất Quyền Con
người với Quyền Công dân! Trong các văn kiện pháp lý (hiến pháp, luật) chỉ tồn
tại thuật ngữ Quyền Công dân! Khi khởi xướng công cuộc cải cách đổi mới, những
trí thức hợp lý của nhân loại được tiếp thu!
------------------
Chia
tay ý thức hệ
Phần 2
Phong
kiến biến tướng
Chính
trị học Mác-Lê
5) Hỏi: Vì
sao trong bài Đôi điều suy nghĩ... (ĐĐSN...) anh luôn đối chiếu Mác-Lê với
Khổng-Mạnh?
Đáp:
Theo nhận thức của tôi thì tư duy chính trị Mác-xít chỉ là tư duy Đức trị phong
kiến mang màu sắc Công nghiệp.
Trước đây, bản chất Phong
kiến của hệ thống chính trị Mác-Lê bị che mờ đi là do mấy nguyên nhân sau:
+ Về nội dung: Người ta
thấy lý thuyết Mác-Lê có những nhân tố mà lý thuyết Đức trị phong kiến không có
như Giai cấp công nhân và Đảng tiền phong, tính Quốc tế, tính tập thể, tính
Công nghiệp, tính Duy vật biện chứng... Hơn thế, lý thuyết Mác -Lê luôn nói về
ý thức hệ phong kiến như ý thức hệ phản động cần phải tiêu diệt.
+ Về vai trò lịch sử: Có
sự ngộ nhận rằng chủ nghĩa Đế quốc là giai đoạn tột cùng của Chủ nghĩa Tư bản.
Chủ nghĩa Tư bản sắp cáo chung thì phải có cái gì thay thế nó chứ? Trong cơn
khủng hoảng của thế giới ở những thế kỷ đầu của Văn minh Công nghiệp thì sự phê
đối với xã hội Tư bản đương thời và khát vọng về một thế giới khác đã trở nên
mảnh đất tuyệt vời để nẩy mầm hạt giống Cộng sản, người ta ngưỡng vọng nó như
một cái gì hoàn toàn mới mẻ... Sau những thắng lợi huy hoàng ở giai đoạn đầu của
trào lưu Cộng sản: chiến thắng phát xít, sự xuất hiện một siêu cường Cộng sản
với nền công nghiệp nặng, vũ khí hạt nhân, thám hiểm vũ trụ... thì ngưỡng vọng
ấy càng trở thành niềm tin thực sự. Thực tế ấy khiến cho cả những người dù có
nhìn thấy những điều không ổn trong tư duy Mác-xít cũng không dám nghĩ rằng tư
tưởng Mác-xít chỉ là bản sao mang màu sắc Công nghiệp của tư tưởng phong kiến
lỗi thời.
Nhưng nếu xem xét vấn đề
từ sự tiến hóa Đức trị sang Pháp trị sẽ thấy bản chất này hiện ra rất rõ.
6) Hỏi:
Đức trị và Pháp trị khác nhau thế nào? Chuyên chính Vô sản là Đức trị hay Pháp trị?
Đáp: So
sánh đầy đủ ắt phải viết nhiều pho sách, vì trong lịch sử từ Đông sang Tây đã
có nhiều biến thể phức tạp. đây chỉ có thể rút ngắn chuyện nghìn năm vào một
vài hàng, với một vài điều cốt lõi.
Trên đường tìm kiếm những
phương pháp để tổ chức, duy trì và điều hành xã hội, các nhà tư tưởng phương
Tây cũng như phương Đông rút cuộc đều phát hiện các nhu cầu Đức trị, Pháp trị
và nhu cầu phối hợp cả hai yếu tố đó. Ba xu hướng này với vô số biến thể của
chúng đã tồn tại và đấu tranh với nhau từ trước Công nguyên cho tới hôm nay, và
cùng với chúng là những nhìn khác nhau về bản chất cao quý hoặc tàn bạo của
Chính trị và của Nhà nước, cùng với chúng là những cẩm nang khác nhau để dạy
những thủ đoạn chính trị cho nội bộ giới cầm quyền mỗi nước mỗi thời. Những
chuyện bếp núc tàn bạo và dối trá của Chính trị ta tạm gác sang một bên.
Về triết học mà nói bao
quát hết thảy chỉ có hai phạm trù tư tưởng về tổ chức xã hội, xây dựng trên hai
nền nhân văn khác nhau: chủ nghĩa Nhân văn cổ điển và chủ nghĩa Nhân văn mới.
Đạo trị nước của Nhân văn cổ điển là Đức trị, đạo trị nước của Nhân văn mới là
Pháp trị, Đức trị cực thịnh ở chế độ Phong kiến, ứng với Văn minh Nông nghiệp.
Quản Trọng, Hàn Phi, Vệ Ương, Machiavel... tuy đã đụng chạm đến Pháp trị nhưng
về toàn cục thì vẫn nằm trong quỹ đạo Đức trị.
Pháp trị ra đời cùng với
Văn minh Công nghiệp mở đầu bằng Dân chủ tư sản và phát triển thành nền Dân chủ
Đa nguyên ngày nay. Pháp trị ngày nay cũng có yếu tố Đạo đức, song về tư duy có
khác với Đức trị về chất không thể lẫn lộn với Đức trị nữa. Chúng ta hãy xem
nền chính trị Chuyên chính Vô sản nằm ở chỗ nào trong bậc thang tiến hóa ấy?
Trước hết phải hiểu cơ sở
triết học của Nhân văn cổ điển và Nhân văn mới. Cả hai nền Nhân văn đều muốn
hướng xã hội và con người đến Chân Thiện Mỹ, cho con người được hạnh phúc trong
sự hòa với nhau và thuận với quy luật. Song mỗi bên nhận về Con người một khác
và từ đó đưa ra những tiền đề khác hẳn.
Tư duy Nhân văn cổ điển
dựa trên tiền đề: Con người bản chất là thiện và giống nhau nhưng trong quá
trình sống bị cái ác làm cho tha hóa đi và phân ly ra (Nhân chi sơ, tính bản
thiện, tính tương cận, tập tương viễn). Vậy phải chống cái ác và chống sự phân
ly, chống sự tha hóa, thu về một mối! Tư duy chiến lược của Đức trị là nhất thể
hóa xã hội, mà đỉnh cao của nó thể hiện ở tính tập thể, quốc tế, đại đồng...
của thuyết Mác-Lênin.
(Tuân tử có nói đến bản
tính ác của con người, đó thật là tiếng chuông cảnh tỉnh cho phái Đức trị, song
cái ác mà Tuân tử nói tới chỉ là cái bản tính thứ sinh thôi, bởi nếu biết tích
thiện thì kẻ tầm thường cũng có thể thành kẻ sĩ rồi thành thánh nhân thì như
thế cái ác sao có thể coi là bản tính được. Về toàn cục Tuân tử vẫn là đại biểu
của Đức trị)
Tư duy nhất thể hóa ấy
đương nhiên dẫn đến chỗ phải tìm kiếm và khẳng định xem cái khuôn mẫu thiện duy
nhất ấy là cái gì. Phong kiến khi xưa thì khẳng định đó là đạo trời (hoặc biến
thái thành đạo người, đạo vua...) mà Thiện tử được ủy nhiệm, Mác-Lênin thì
khẳng định đó là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân tiêu biểu cho Thời đại, mà
Đảng Cộng sản là đội tiên phong được Lịch sử giao phó. Những khẳng định ấy đều
mang tính tiền đề, nghĩa là chỉ được giải thích chứ không được chứng minh, hoặc
đã chứng minh một lần rồi là không bao giờ được xét lại nữa. Bởi tất cả những
chân lý ấy đều là do những đại biểu của họ viết ra chứ có ai biết mặt mũi ông
Trời và ông Lịch sử ra sao đâu. Điều này giải thích tại sao tất cả các chính
thể Đức trị đều không thoát khỏi màu sắc Tôn giáo.
Về biện pháp, lúc đầu nặng
về khuyên răn giáo dục (cầu bất giáo, tính hãi chuyên: nếu không giáo dục thì
cái tính tha hóa phân ly ấy sẽ quen đi), nhưng biện pháp thiện này bất lực
trước thực tiễn, và các nhà Đức trị đã buộc phải cầu viện đến cái ác trong biện
pháp. Machiavel khuyên quân vương phải biết lừa đảo và tàn nhẫn, (vừa như con
vật vừa như thằng người). Thế mà theo Creel thì Machiavel so với Hàn Phi vẫn
chưa thấm vào đâu; Hàn Phi, Thần Bất Hại... đề cao cái Thuật trong phép trị nước.
Đến Mác-Lê thì sự quyết liệt này lại lên cao thêm một cấp độ nữa, không ngần
ngại nói thẳng ra rằng người Cộng sản mà không dám đẩy cái đấu tranh giai cấp
tới cấp độ Chuyên chính Vô sản thì cũng chưa xứng với tầm Cộng sản...!
Nếu tính ác trong chính
trị Machiavel còn được ý thức là cái ác mà quân vương buộc phải làm, cái ác
trong chính trị Hàn Phi còn manh nha cho Pháp trị, thì đến Mác-Lê cái Chuyên
chính hoàn toàn không được nhận thức như cái ác, mà là cái thiện gấp triệu lần
những cái thiện khác, không còn là biện pháp bất đắc dĩ của quân vương mà biến
thành cái chân lý má quần chúng cần hướng tới, không phải mở đường cho Pháp trị
mà lại trèo trên Pháp trị, ức chế Pháp trị. Đến Mác-Lê thì mâu thuẫn thiện-ác
nội tại của Đức trị đã lên tột đỉnh.
Hệ tư duy Đức trị khởi
thủy là toàn thiện : con người thiện, phương pháp thiện, đi đến cái đích cực
thiện. Nhưng lối suy nghĩ duy tâm ấy và phải thực tế nên buộc phải bổ sung bằng
cách sử dụng cái óc với tư cách phương pháp, có nghĩa là tự thâu nhận vào trong
lòng mình cái ác, và thế là phải chấp nhận cái đối lập với mình, vì bản tính
của thế giới khách quan vốn là Đa nguyên. Nhưng người Mác-xít luôn nói đến tính
muôn màu muôn vẻ của tự nhiên mà không nhận ra cái lẽ Đa nguyên rất tự nhiên
của trời đất, bởi dẫu đã cố gắng duy vật và biện chứng (đồng thời vẫn rất duy
tâm và siêu hình) nó vẫn quanh quẫn trong hệ ý thức Nhân văn cổ điển, luôn nhất
thể hóa xã hội, cứ muốn thu xã hội về một mối, tỏa ra từ một nguồn.
Hệ Nhân văn cổ điển tuy có
tự bổ sung như vậy vẫn không thoát khỏi bế tắc. Lúc đầu ta tự an ủi rằng cái ác
chỉ là phương tiện để đi tới cái thiện nên ráng nhắm mắt mà chịu cho qua giai
đoạn quá độ. Nhưng việc tách mục đích và phương tiện một cách rành mạch như thế
không biện chứng chút nào. Mục đích lồng trong phương tiện, và phương tiện cũng
lồng trong mục đích, mục đích của công đoạn trước có khi là phương tiện cho
công đoạn sau (cái lát cắt chia đôi mục đích với phương tiện chỉ là lát cắt giả
tạo), mục đích và phương tiện luôn đổi chỗ cho nhau.
Cái óc cũng biết tự vệ,
nửa đường nó dừng lại để tự sinh sôi và không tiếp tục con đường hành Thiện
nữa. Giai đoạn quá độ kéo dài vô thời hạn. Thiện ác dồn lại một cục, Đạo đức và
Phi đạo đức cứ xoắn vào nhau, lẫn lộn không biết đâu mà phân biệt. Quá rành
mạch cuối cùng lại không rành mạch. (Khi ấy, cái lát cắt chia đôi Thiện và ác
cũng không giúp ta phân định mọi điều được nữa!).
Chưa kịp đối phó với bệnh
giáo điều coi phương tiện Mác-Lê là mục đích để gây ra cái hại chung đã phải
quay sang đối phó với tật thực dụng, dùng Mác-lê làm phương tiện để tạo cái lợi
riêng.
Cái bế tắc ấy của thể chế
Xã hội chủ nghĩa không mới mẻ gì, chỉ là cái bế tắc nghìn đời của lý tưởng Đức
trị, mà đáng lẽ đã được lịch sử cho phép cáo chung cùng với sự cáo chung của
chế độ Phong kiến và Văn minh Nông nghiệp rồi.
Các nền Đức trị bế tắc vì
coi cái gốc của Thiện là ở bên trên, ở Vua, ở Đảng tiền phong..., nên khi chính
cái gốc ấy tha hóa thì không tự hoàn Thiện được. Pháp trị khơi thông được bế
tắc này là nhờ coi nguồn Thiện vô tận là từ biển cả Nhân dân, nên chủ trương
tạo điều kiện gây sức mạnh từ dưới lên để khống chế sự tha hóa của quyền lực
thống trị và làm nó mạnh trở lại.
Sự ra đời của sản xuất
Công nghiệp và Kinh tế thị trường đã chiếu một tia sáng hoàn toàn mới vào tư
duy của con người trong việc tổ chức và điều hành xã hội. Người ta nhận ra cái
nghịch lý rằng muốn cho xã hội có đạo đức hơn thì phải giả thiết là nó gồm
những người chưa có đạo đức, và không thể gom họ về một mối tốt đẹp đã định sẵn
được. Nguy cơ vô đạo đức nhất luôn phát xuất từ kẻ đi thi hành đạo đức, bởi quy
luật của quyền lực là bành trướng vô hạn độ, nếu không gặp phản lực. Những
người đạo đức thực sự bây giờ giác ngộ rằng phải tạm gác phương án tối đa để
đảm bảo cho phương án tối thiểu : Chưa cần anh đạo đức, xin anh hãy sòng phẳng
với chúng tôi cái đã!
Nghĩa là xã hội loài người
phải đổi luật chơi.
+ Thay vì sử dụng sức mạnh
xã hội theo chiều từ trên xuống để tác động vào đám dân đen, bây giờ phải gây
sức mạnh từ dưới lên để khống chế thế lực cầm quyền, thông qua quyền bầu cử và
các quyền công dân khác, mà quyền cơ bản nhất là quyền tư hữu.
+ Thay vì tập trung quyền
lực vào một nguồn (nhất nguyên), bây giờ phải tam quyền phân lập và chấp nhận
nhiều tổ chức chính trị độc lập với nhau trong xã hội (đa nguyên). Thay quyền
lực định sẵn kéo dài vô hạn, bằng quyền lực dân cử, định kỳ hữu hạn.
+ Thay vì nhân danh một lý
tưởng cao xa do áp đặt đơn phương, người cầm quyền chỉ được nhân danh cái khế
ước rất cụ thể do mọi người trong xã hội cùng nhau thỏa thuận, gọi là luật
pháp. Thay vì bị quy định trong tất cả mọi việc làm, người dân bây giờ chỉ bị
quy định về những điều không được làm, do đó phạm vi tự do cá nhân được nới
rộng một cách căn bản.
+ Thay vì lấy chuẩn tĩnh
là vua hoặc một tập đoàn gọi là tiền phong, phải lấy chuẩn động là những lực
lượng tiên tiến luôn xuất hiện từ trong xã hội.
+Kết quả là một xã hội
thần dân ổn định giả tạo dưới ách chuyên chế được thay bằng một xã hội công dân
linh hoạt và hơn hẳn về tính Dân chủ.
Tư duy khoa học và tiến bộ
này được khơi nguồn từ John Locke (1632-1704), Montesquieu (1689-1755)..., phát
triển thành nền Dân chủ tư sản thế kỷ 18-19, rồi thành nền Dân chủ đa nguyên
Pháp trị ngày nay.
Đức trị đã có vô số biến
thể thì Pháp trị cũng không thể quy về một hình mẫu cứng nhắc nào. Một thể chế
xã hội tốt, nhất định phải phù hợp với những đặc điểm Dân tộc là Lịch sử của
mình. Nhưng không thể vịn vào đó để duy trì một chế độ Đức trị Mác-xít ảo
tưởng, mà thực chất là nền Chuyên chính của thiểu số nhân danh Vô sản, thiết
lập trên đầu Nhân dân, trong khi Nhân loại đã chuyển sang kỷ nguyên Pháp trị!
°
Trên cơ sở những điều đã
trình bày trên tôi thấy có thể kết luận rằng:
Bản chất của dòng tư tưởng
Mác-Lê về xã hội là dòng tư tưởng Phong kiến phục hưng cộng với ảo tưởng Cộng
sản nguyên thủy (hoặc ảo tưởng Nô lệ) trong cơn khủng hoảng tăng tốc của nền
Văn minh Công nghiệp.
Học thuyết Mác-Lê không
phải là cái gì cao xa chưa tới mà chỉ là cái hoài vọng đã bị vượt qua, chỉ là
biến tướng mới mang cái mốt công nghiệp của chủ nghĩa phong kiến đã bị lịch sử
vượt qua trước đây nhiều thế kỷ. Nó không phải là thứ cẩm nang dẫn đường đầy
tính xúc tích huyền bí đến mức hàng thế kỷ sau chưa có ai hiểu đúng, mà chỉ là
những dự đoán lẩm cẩm không bao giờ có thực trên đời.
7) Hỏi: Quan
hệ giữa Đức trị và Đạo đức?
Đáp: Đạo
đức là một giá trị tinh thần cao quý, nhưng cũng biến đổi theo thời đại. Khi
thời đại thay đổi thì Đạo đức là yếu tố tương đối ổn định nên biến đổi chậm hơn
so với những biến đổi của kỹ thuật, kinh tế, chính trị... Vì thế, tác dụng của
Đạo đức mang tính hai mặt. Mặt tích cực là duy trì ổn định xã hội, nhất là của
dân tộc, chống lại những điều nhi nhô nhất thời. Mặt tiêu cực là tính ỳ cao, ở
những giao thời của lịch sử thì Đạo đức đương thời luôn thuộc về hệ thống cũ.
Lực lượng mới của xã hội muốn đi tới bao giờ cũng phải làm cái động tác phá vỡ
Đạo đức cũ như con gà con phá vỏ trứng để chui ra. Vì thế, bản chất của tiến
hóa và sinh sôi là phi đạo đức!
Đạo đức còn có một thuộc
tính nữa là rất dễ bị bắt chước để làm giả, Đạo đức giả còn mê ly hơn cả Đạo
đức thật. Nhà chính trị lão luyện nào cũng phải là một tay chơi Đạo đức. Vì
thế, luật của Pháp trị lành mạnh là Cấm trị nước bằng Đạo đức!
Một thuộc tính khác của
Đạo đức là xu hướng tự hoại, nghĩa là trong môi trường mà Đạo đức cầm trịch thì
Đạo đức sẽ tự mất đi.
Đạo đức là giá trị cao quý
mà mỗi con người cần có để đối xử với nhau và giáo dục nhau, muôn đời không ai
dám nói bỏ Đạo đức, nhưng Đức trị thì loài người thông minh ngày nay không sài
nữa rồi. Chừng nào chưa biết ghê sợ Đức trị thì dân tộc ấy còn ở trong cơn mê
man để làm mồi ngon cho những mưu toan.
Trừ khi cả dân tộc ấy (cả
tầng lớp thống trị và bị trị) đều là những tay chơi Đạo đức thì không kể! Nhưng
chẳng lẽ điều này lại có thể xảy ra, và nếu tất cả đều ranh ma như thế thì tôi
còn viết những lời ngốc nghếch này ra đây làm gì? Không, không thể như thế.
Nhân dân, ít ra nhân dân lao động và một thiểu số trí thức, bao giờ cũng lương
thiện!
8) Hỏi:
Thực tiễn nào ở Việt Nam minh chứng cho quan điểm của anh về bản chất Phong
kiến của nền Đức trị Mác-xít?
Đáp: Có
thể nói toàn bộ thực tiễn Việt Nam và thực tiễn trong phe Xã hội chủ nghĩa minh
chứng cho quan điểm của tôi. Xin kể mấy ví dụ điển hình:
+ Theo trí tưởng tượng của
Mác thì ý thức hệ Phong kiến là rất xưa cũ, phải trải qua ý thức hệ Tư sản rồi
mới tiến lên ý thức hệ Vô sản, mà mỗi bước chuyển biến ấy là cả một kỷ nguyên
mới, trong lịch sử phải đo bằng ngàn năm chứ đâu phải chuyện chơi! _ thức lại
là cái thay đổi rất chậm so với kinh tế, vậy mà chẳng hiểu sao những nước phong
kiến lạc hậu như Trung Hoa, Việt Nam, Lào, Cao Miên... lại tiếp nhận thẳng ngay
ý thức hệ Vô sản một cách nhạy bén đến thế, mà tiếp nhận rồi thì bám chặt lấy,
tẩy cũng không đi. Trong khi đó những nước đã ở trình độ cao của ý thức hệ Tư
sản thì sao lại tỏ ra ngu dốt không tiếp thu nổi ý thức hệ tiên tiến của Mác?
Có gì đâu mà lạ! Cùng một
chất Phong kiến như nhau thì thâm nhập vào nhau đâu khó khăn gì!
Lúc đầu người ta cứ tưởng
Việt Nam chưa có giai cấp công nhân bao nhiêu, toàn nông dân thì tiếp thu ý
thức hệ Vô sản chắc là khó lắm, ai ngờ bây giờ mới biết cái xứ sở Nông dân
Phong kiến lạc hậu này mới chính là mảnh đất lý tưởng của Mác-Lê!
Cái chất Phong kiến gia
trưởng thời vua chúa chưa kịp tẩy rửa bởi một nền Dân chủ đã tìm thấy chỗ đứng
rất ngon lành trong hệ chuyên chính dân chủ tập trung!
Cái chất Đức trị sặc mùi
tam Cương ngũ Thường chưa bị thanh toán đã tìm thấy sự đồng điệu trong một thể
chế _ thức hệ trị, một thứ Đức trị mới toàn những Nghị quyết, những Cương lĩnh,
Thường vụ...
Nếu nhìn thấy 55 tập Lênin
in tuyệt đẹp chắc cụ Khổng cụ Mạnh phải ghen tỵ không được sống tới bây giờ, để
Tứ thư, Ngũ kinh cũng được làm quen với giấy cút-sê!
Nói: chủ nghĩa Xã hội
chính là sự kéo dài của chế độ phong kiến là chí lý lắm vậy. Mối tương hợp ấy
Mác cũng đã mường tượng ra, nhưng ông lại giải thích nó một cách khác. Theo
ông, những Công xã nông thôn, những Cộng đồng làng xóm chính là chỗ dựa của nền
Chuyên chế phương Đông là những thứ nhất định sẽ bị thanh toán khi tiến lên chủ
nghĩa Tư bản, nhưng lại trở thành cái khởi điểm trực tiếp để đi tới chủ nghĩa
Xã hội (!) (?).
Đấy chẳng là bằng chứng về
sự tương hợp giữa hai thứ Chuyên chế là gì?
+ Bây giờ thử nhìn vào đội
ngũ những người đã du nhập chủ nghĩa Mác-lê vào Việt Nam. Trước hết về chủ tịch
Hồ Chí Minh. Theo lời cụ Hồ cũng như theo lời những người nghiên cứu về cụ Hồ
đều thống nhất rằng cụ Hồ là một nhà Nho. Nho giáo ở cụ Hồ là Khổng giáo. Tư
tưởng chính trị của Khổng giáo là Đức trị, thậm chí chống Pháp trị.
Về chất Nho của cụ Hồ, ta
sẽ không nói tới cái Nho trong cách biểu đạt tư tưởng, trong đó rất nhiều câu
nhiều ý là từ sách vở Khổng giáo, chỉ bàn về nội dung tư tưởng bên trong cách
biểu đạt đó.
Cụ Hồ thấm nhuần đạo Khổng
ở tính Đạo đức của nó ( Đạo Khổng là một môn giáo dục về đạo đức và phép xử
thế, lời cụ Hồ nói với nhà thơ Ôxíp Manđenxtam). Về biện pháp để có đạo đức thì
xoay quanh mấy chữ học, dạy, tu dưỡng bản thân, phê bình và tự phê bình... Cụ
nói: Muốn cải tạo thế giới và cải tạo xã hội thì trước hết phải tự cải tạo bản
thân, Muốn xây dựng Chủ nghĩa xã hội thì trước hết phải có những con người Xã
hội chủ nghĩa!. Tức là cụ Hồ đã đi đúng vào cái vết xe mà Đức trị đã đi suốt
mấy nghìn năm: chính tâm, tu thân, trị quốc, bình thiên hạ! Rồi cũng bằng chính
tấm lòng khao khát có một thể chế Đức trị cho dân tộc ấy, cụ Hồ đã bắt gặp lý
thuyết Chuyên chính Vô sản và mê ngay từ buổi gặp đầu. Tôi dùng chữ cộng hưởng
là vì vậy.
Những cái hay cái đẹp như
các cụ nói nào có ai phản đối. Vấn đề là làm thế nào để thực hiện? Khi xã hội
đã tiến vào sản xuất Công nghiệp và kinh tế Thị trường thì việc trị nước bằng
cách lấy Cá nhân làm gốc để tỏa ra làm tốt xã hội. lấy Giáo dục làm biện pháp
trung tâm chắc hẳn đã bị đẩy vào quá khứ cùng với nền Đức trị phong kiến, nếu
trên đời đã không sinh ra kẻ kế thừa đó là nền Chuyên chính Vô sản.
Nếu cụ Hồ chỉ là nhà giáo
dục, nhà thơ... thì ta chẳng nói, nhưng cụ Hồ đã nhận mình là nhà Cách mạng
chuyên nghiệp tức nhà chính trị, tức người cầm quyền thì xã hội chờ đợi ở Cụ
một Cơ chế tổ chức xã hội, một bộ luật, và một hệ thống quyền lực sao cho trong
đó cái đạo đức cứ được phát sinh và nuôi dưỡng, cái phi đạo đức cứ bị lọc ra và
trừng trị; giáo dục rèn luyện chỉ còn là biện pháp hỗ trợ. Thế mới là đạo đức
thật sự, và đó chính là cái Đạo đức của Pháp trị. Nhưng thực tế, cơ chế tổ chức
và hoạt động của bộ máy Đức trị Vô sản đã gây những hiệu quả ngược lại với Đạo
đức.
Có gì khó hiểu đâu. Hãy
xem vai trò người tối cao của bộ máy hành pháp: Thủ tướng! Sinh thời của Hồ chủ
tịch thì thủ tướng là cụ Phạm Văn Đồng. Người Việt Nam tỉnh táo nào cũng gọi cụ
Phạm Văn Đồng là vị thủ tướng của Đạo đức, cả một đời nói Đạo đức, đặc biệt là
đạo đức Hồ Chí Minh. Cụ Đồng nói nhiều đến ĐỨC và TÀI, đến HỒNG và CHUYÊN.
Nhưng ĐỨC và TÀI thì cụ Hồ
đã giảng bằng lời của sách Đại học (một trong Tứ thư): Đức giả bản giã, Tài giả
mạt giã! (Tài chỉ là ngọn, Đức mới là gốc). Người cách mạng phải có đạo đức,
không có đạo đức là không có căn bản!
Sau khi đã đưa được Đức
lên vị trí tối thượng, cụ Hồ mới cho Đức mang cái nội dung cốt tử của Chuyên
chính vô sản: chữ TRUNG! Mà trung phải là trung với Đảng! Rồi mới Hiếu với Dân
vân... vân...
Tuy Dân có được kể đến
ngôi vị thứ nhì, nhưng rồi lại có mệnh đề Đảng với Dân là một. Tuy được là một
nhưng ngồi chung vào cái ghế này Dân sẽ bị Đảng thôn tính, vì Dân phải nhớ rằng
Đảng luôn là người lãnh đạo trực tiếp, toàn diện và tuyệt đối! Thế thì Dân còn
chỗ nào đứng? Thương thay cho Dân đã thực sự trở thành con đỏ, được ru được
nựng, được bế ẵm hết chỗ này sang chỗ kia, nhưng có cái bầu sữa thì ở trong tay
mẹ hiền mất rồi, không khóc thì Đảng không cho bú, mà liệu có dám khóc không,
khi mẹ hiền cầm sữa lại cầm cả roi!
Sự tước đoạt ấy là trong
vi phạm ý thức hệ. Hình chiếu của nó thực tế là sự tước đoạt về sở hữu và nhân
quyền. Đảng hô hào đấu địa chủ để người cày có ruộng. Có ruộng chưa mấy ngày đã
phải vào tổ đổi công rồi vào hợp tác, giao hết ruộng hết trâu cho Ban chủ
nhiệm. Và từ đấy trở đi là cảnh:
Mỗi người làm việc bằng hai
Để cho chủ nhiệm mua đài mua xe!
Mỗi người làm việc bằng ba
Để cho chủ nhiệm xây nhà xây sân!
Chủ nhiệm là ai, dứt khoát
là người trong Cấp ủy Đảng, nên quyền sinh quyền sát trong tay. Bị chủ nhiệm
trù thì con thi vào đại học rồi cũng bị xã gọi về, bố mẹ có sang tỉnh khác để
kiếm ăn cũng không thoát khỏi bàn tay quản lý hộ khẩu của Đảng! Trạch trong rổ
cua làm gì có quyền tự do đi học, tự do cư trú...? Có liều lĩnh tự do ngôn luận
mà gửi đơn kiện tới Thủ tướng thì Thủ tướng lại giảng Đạo đức, Đạo đức thì phải
trung với Đảng, nên đơn kiện lại chuyển đúng về Đảng ủy xã để Đảng ủy hành... pháp!
Con đường Đức trị vòng vèo
quá nên người dân đâu có nhìn thấy, Đảng an ủi cho vài câu đạo đức là lại tỉnh
cả người, và lại cố sức để tiếp tục làm việc bằng hai!
Người không hiểu thì tưởng
cụ Hồ chỉ mượn Khổng giáo cái chữ nghĩa, còn nội dung thì đã có Đảng, có hợp
tác xã nghĩa là đã mang tính Cách mạng rất mới mẻ rồi.! Có biết đâu nội dung
phong kiến của chữ TRUNG vẫn được giữ nguyên, trung là dứt khoát không được
nghĩ đến vị chúa tể thứ hai lưỡng Đảng chẳng hạn là mắc tội chết rồi. Cái mới
mẻ là: đáng lẽ trung với Vua thì nay phải trung với Đảng. Đảng đứng thay vào
chỗ của Vua trong cõi tâm linh của người dân Việt, được hưởng trọn tấm lòng
trung quân mà chế độ Phong kiến phải mất cả ngàn năm mới xây dựng được!
Ví dụ nhỏ trên đây chắc có
thể giúp bạn nhận ra rằng sự Tập thể hóa kia không hề khử đi cái nội dung Phong
kiến của chữ Trung, trái lại nó làm cho chữ Trung Phong kiến được cập nhật hóa
để nó có thể sống yên giữa thời sản xuất Công nghiệp, ít ra là trong buổi đầu.
Đức trị Vô sản, đem đối
chiếu với Đức trị Phong kiến thì tính cách mạng chỉ có nghĩa là thay sự trung
thành của cá nhân thần dân với cá nhân Vua bằng sự trung thành của một tập thể
dân với một thể cầm quyền, để rồi trong tập thể cầm quyền này sự trung thành
tối hậu sẽ được giải quyết bằng Đảng tính và nguyên tắc Dân chủ tập trung.
Điều chua chát là trong sự
tranh chấp ở cung đình này nhiều phen cụ Hồ và cụ Đồng với tư cách lãnh tụ chân
chính của Đảng, đã không phải là người được nhận sự trung thành tối hậu đó. Tôi
được nhiều Đảng viên hưu trí kể rằng: Cụ Đồng rất nhiều tâm sự, Cụ bảo cả đời
làm Thủ tướng, tham nhũng như rươi mà tôi chưa cách chức được một cán bộ nào!
Hiện nay ta chống tham nhũng nhưng cũng chỉ chống được từ vai trở xuống thôi!
Nghĩa là Tham nhũng ở trên
đầu là không chống được! Người dân có thể chia xẻ với Cựu Thủ tướng những tâm
tư ấy, nhưng chắc vị Cựu Thủ tướng của chúng ta chưa bao giờ dám nghĩ rằng cội
nguồn của bi kịch này là ở bản chất Phong kiến của nền Đức trị Vô sản! Chẳng
thế mà ít lâu sau cụ Đồng lại tiếp tục cuộc đánh Tham nhũng bằng... những bài
giảng Đạo đức, đạo đức Hồ Chí Minh.
Chính cụ Hồ với đạo đức Hồ
Chí Minh có thật trong tay mà chưa chống được tham nhũng, huống hồ một người
nào đó không phải Hồ Chí Minh, chỉ nói Đạo đức Hồ Chí Minh chứ chắc gì đã có
Đạo đức thật, thì thử hỏi chống thế nào được tham nhũng?
Xin hãy lắng nghe lời mách
nước của thời đại (nếu thực tâm muốn nghe): Hãy quên Đạo đức đi, để làm Pháp
trị cho ngon lành thì Tham nhũng nó mới sợ!
Muốn có công bằng mà chọn
Đức trị là đồ ngốc, vì tình cảm luôn luôn dẫn đến mất công bằng. Muốn có dân
chủ mà chọn Đức trị là đồ ngốc, vì tình cảm luôn luôn dẫn đến quân phiệt. Muốn
được giải phóng mà chọn Đức trị là đồ ngốc, vì Đạo đức là cái bẫy của kẻ thống
trị để bẫy những kẻ có tâm mà trí không đủ, chỉ thấy gần mà không thấy xa. Càng
hướng thiện bao nhiêu, càng cựa quậy để tìm Đạo đức bao nhiêu thì càng rúc sâu
vào bẫy bấy nhiêu. Kẻ thống trị chỉ cần nắm cái bẫy Đạo đức giơ lên là xỏ mũi
được cả đàn. Không biết đến bao giờ Nhân dân mới nhận ra điều ấy, lúc ấy người
ta sẽ tìm Pháp trị.
Xin nối lại một chút cái
mạch suy nghĩ về Đ_C và TI. Khởi đầu có vẻ như đây là hai giá trị song song.
Nhưng không ý thức hệ Đức trị buộc phải coi Đức là gốc, Tài là ngọn. Rồi cái
gốc Đức ấy lại phải mang nội dung số 1 là trung với Đảng. Chỉ cần thuyết giảng
hai bước ấy thôi là TI đã tụt xuống thân phận đầy tớ cho sự nghiệp Chính trị
của Đảng. TI mà không phục vụ được sự nghiệp Chính trị của Đảng thì cũng không
bằng cục phân. Đừng nghĩ rằng điều quá quắt này là ở bên Tàu những năm về
trước. Chính ở Việt Nam đây ngày hôm nay, giữa lúc sự nghiệp đổi mới rất thành
công này, điều ấy càng đúng hơn bao giờ hết!
Đảng ta đang trọng trí
thức và càng ngày trọng trí thức, điều ấy xin đừng ai nghi ngờ. Vì Đảng ta thừa
biết nếu chỉ dùng mấy anh bất tài, thì dẫu có giữa độc quyền sở hữu đất đai để
độc quyền mua bán với nước ngoài cũng không thể hòa nhập được vào thế giới đầy
trí tuệ hôm nay. Nên mọi tài năng ắt được sử dụng, nhưng với một điều kiện:
phải phục vụ cho sự nghiệp chính trị của Đảng (chú ý rằng Chính trị Mác-xít thì
bao giờ cũng có Kinh tế trong đó rồi! Mác-Lê chỉ dạy kinh tế -Chính trị học
conomie politique, mà không dạy Khoa học Chính trị Science politique!). Sự
nghiệp của Đảng thì luôn đồng nghĩa với sự nghiệp của đất nước, nên ở Việt Nam
này dù nói vì đất nước hay vì Đảng thì ý nghĩa chính trị công khai của câu văn
cũng không có gì thay đổi (nhưng trong chốn lương tri thầm kín thì hai câu văn
kia lại có nghĩa đạo đức trái ngược hẳn, người ta biết anh vì đất nước thì người
ta trọng, chứ biết anh là kẻ vì Đảng thì người ta lánh xa đấy, không là một
được đâu!).
Vừa ý Đảng thì chữ TI liền
với chữ TI N, trái với ý Đảng thì chữ TI liền với chữ TAI! Chọn đường nào thì
chọn!
Trí thức Việt Nam nhạy
bén, họ hiểu ý Đảng nên chẳng dại gì mà chọn chữ TAI, cứ chọn con đường có hình
Bác Hồ chỉ lối, để Bác vẫn cùng chúng cháu hành quân... thì đánh đâu thắng đấy.
Cứ có Bác Hồ trong tay là sai khiến được ráo, Chuyên chính Vô sản chỉ nghe lời
Bác Hồ! Người Việt thời nay nói về đồng tiền cách mạng một cách rất đạo đức như
thế!
Đấy là bài Đạo đức mà xã
hội Mác-Lê đã dạy cho họ. Trong thâm tâm họ thừa hiểu những bài Đạo đức của
lãnh tụ Vô sản thuyết giáo, vô tình chỉ để tạo ra một tầng lớp Cường hào mới
giầu có gấp vạn lần bọn Cường hào phong kiến khi xưa.
Thời cực thịnh của Đức trị
là Phong kiến, ngày nay cứ ham Đức trị là rơi vào Phong kiến, mà Phong kiến
ngày nay thì đâu còn cái nét đẹp của Phong kiến cực thịnh ngày xưa?
Phân tích như trên tôi
không có ý gì muốn xúc phạm đến tấm lòng của cụ Hồ Chí Minh, cụ Phạm Văn Đồng
là những vị có công Cứu nước, cũng như không dám xúc phạm đến tấm lòng cụ Các
Mác thánh thiện. Trái lại tôi muốn khẳng định rằng tấm lòng dù thánh thiện đến
đâu cũng không thoát khỏi cái vòng Kim cô của _ thức hệ. Đối với những người
điều hành xã hội vấn đề là phải giải phóng _ thức hệ trong cái đầu, chứ chủ yếu
không phải là khổ công rèn luyện để chính cái Tâm! Đứng trong ý thức hệ ấy thì
cái Tâm cũng chẳng chính mãi được đâu! chính thật thì ra rìa!
9) Hỏi:
Có thể bàn gì về Tư tưởng Hồ Chí Minh?
Đáp: Về
cơ bản vấn đề này không còn là vấn đề khó nhận thức nữa, song ở một chừng mực
nào đó lúc này vẫn còn là việc khó nói, và có lẽ chưa tiếng nói nào có thể là
tiếng nói cuối cùng, song cũng đã là việc không thể không nói.
Hồ Chí Minh đã thành nhân
vật lịch sử của Dân tộc và của thế giới. Tốt nhất không nên coi Hồ Chí Minh là
thủ lĩnh, hay thần tượng, hay kẻ thù, của anh, của tôi nữa. Cuộc đời của Chủ
tịch đã để dấu ấn khắp nơi, tôi có nói thêm, anh có nói bớt cũng không được.
Tốt nhất là ai nghĩa sao nói vậy, biết sao nói vậy, thẳng thắn và chân thành,
có thể ý kiến ấy chưa đạt tính hệ thống và toàn diện.
Về phần tôi, tất cả những
ý kiến đã trình bày và sẽ trình bày trong bài viết này về _ thức hệ Vô sản, về
tình hình đất nước cũng đã là lời bàn về nhân vật lịch sử số 1 ấy rồi. Đây chỉ
là mấy lời bàn thêm:
+ Cụ Hồ thuộc những nhà
Nho yêu nước lớn của Việt Nam, là một người Việt Nam điển hình của thế kỷ 20,
tài giỏi về nhiều mặt. Sự gặp gỡ của Hồ Chí Minh với Phong trào Cộng sản là
biến cố bao trùm cuộc đời của Cụ, và do đó góp phần quyết định chiều hướng phát
triển của ngót một thế kỷ đầy biến cố lớn lao của lịch sử Việt Nam, và ảnh
hưởng sang cả nhiều nước cùng cảnh ngộ. Trong cuộc gặp gỡ lịch sử ấy, Hồ Chí
Minh đã xử lý một cách thành công đồng thời cũng không thành công.
+ Nương theo trào lưu Cộng
sản đang tràn dâng lên thế giới để đánh thức và tập hợp sức sống của một cộng
đồng Dân tộc, làm cuộc Khởi nghĩa Tháng 8 thành công và sau đó là 9 năm trường
kỳ kháng chiến thắng lợi, đem lại khuôn mặt mới và khí thế mới cho nước Việt
Nam từ nô lệ và nghèo đói là một sự nghiệp thần kỳ.
+ Song điều đáng tiếc là
sự nghiệp Hồ Chí Minh đã không đi tiếp vào con đường Dân tộc hòa bình sáng lạn.
Mặt tiêu cực của sự gặp gỡ
giữa dân tộc Việt Nam nói chung và Hồ Chí Minh nói riêng với trào lưu Cộng sản
là đã du nhập vào đất nước mình một mô hình Xã hội chủ nghĩa không tưởng, đặt
căn bản trên một ý thức hệ phong kiến tân thời, một thiên đường trại lính
Maoít, nên nước Việt Nam độc lập đã không bắt kịp trào lưu canh tân của thế
giới mà trở thành nạn nhân bi đát nhất của cuộc chiến hai phe của các nước lớn.
Sau cuộc huynh đệ tương
tàn oan uổng, ý thức hệ ấy lại tiếp tục chỉ huy những hành hạ lẫn nhau, tạo môi
trường cho những yếu tố hủ bại hãnh tiến lên ngôi, phá hoại kỷ cương, phá hủy
những giá trị lương thiện và tiến bộ.
+ Cuối cùng thì ý thức hệ
đang rút lui khỏi lịch sử một cách không tuyên bố, nhưng đất nước vẫn tìm lối
ra theo cung cách như trên, với một nhịp điệu ghê gớm hơn, và gây ra những hậu
quả sâu sắc hơn. Và bi kịch thay, thần tượng anh hùng dân tộc Hồ Chí Minh rất
đẹp đẽ lại được dùng làm bình phong để bảo trợ cho tiến trình lắt léo này. Đó
là tất cả sự khôn ngoan Việt Nam.
+ Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
thành công trong một sự nghiệp lớn, nhưng lại không thành công trong một sự
nghiệp lớn hơn, bao quát hơn. Xét về nguyên nhân chủ quan, ta thấy những thành
công đều gắn với bản chất thông minh và nhân hậu, ý chí kiên cường và đặc biệt
khôn ngoan khi xử lý tình huống, khả năng lợi dụng tình hình và thời cơ, tận
dụng những nhân tố có sẵn từ bên trong và bên ngoài thành sức mạnh tổng hợp để
đạt mục tiêu.
Nhưng sang một bài toán
lớn hơn, mang tính thời đại hơn, thì những ưu điểm ấy không đủ. Do bản năng
nhạy bén, Nguyễn i Quốc đã nhìn thấy từ trào lưu Cộng sản sức mạnh ghê gớm cần
phải sử dụng, và cũng linh cảm thấy trong đó có điều phải cảnh giác, nhưng điều
kiện chủ quan cũng như khách quan đã không cho Nguyễn i Quốc đủ nhận thức hệ
thống để phân định vấn đề tận gốc, nên đã sa vào thiên la địa võng của một đại
bi kịch nhân loại mà những nước khôn ngoan hơn đã tránh được. Dùng âm binh rồi
không khiến nổi âm binh, để lại bi kịch cho dân tộc cũng như bi kịch cho cuộc
đời riêng của mình.
Vậy nếu phải nói về chỗ
bất cập của người anh hùng Hồ Chí Minh trước bài toán lịch sử của Dân tộc tôi
sẽ nói rằng nhà Chính trị yêu nước tài ba ấy không phải là một nhà tư tưởng.
Nhà Nho yêu nước ấy kế thừa tư tưởng Đức trị phong kiến Khổng giáo nên đã cộng
hưởng với chất Đức trị Vô sản trong chủ nghĩa Mác; đạo đức ấy rất đẹp nhưng
trong xã hội hôm nay nó chỉ còn là chỗ ẩn nấp rất lý tưởng cho những thứ phi
đạo đức.
+ Lịch sử đã quay hết một
vòng, nay ngồi nghĩ lại mà so sánh một đường cách mệnh của cụ Nguyễn ái Quốc
theo gót Mã khắc Tư và Lý Ninh (Marx, Lenin) với con đường khai dân trí, chấn
dân khí, hậu dân sinh của cụ Phan Tây Hồ theo gót Mạnh - Đức Tư - Cưu và Lư
Thoa (Montesquieu, Rousseau) thì mới biết câu Dục tốc bất đạt của cổ nhân chí
lý lắm vậy. Muốn nhanh thì không tới được!. Đường lên Văn minh không có lối
tắt, đi tắt để tiến thẳng lại hóa ra đi vòng quanh, đi mãi cuối cùng lại phải
vòng về điểm xuất phát ban đầu!
+ Trình bày từng ấy ý kiến
chắc cũng đủ nói lên nguyện vọng của tôi, một người dân Việt hậu sinh về cái
việc lập hẳn một Viện tư tưởng Hồ Chí Minh là một việc không nên chút nào!
Trong nhân dân, biết bao nhiêu điều dị nghị.
- Việc áp dụng (dầu là áp
dụng tài tình) một hệ tư tưởng đã có, chẳng lẽ lại là một hệ tư tưởng nữa hay
sao? Về mặt tư tưởng thì cụ Mác, cụ Lê còn lo không đứng được huống chi học
trò, lại là một học trò không chuyên về tư tưởng, chủ yếu trông coi phần thực
nghiệm?
- Cụ Hồ mang nhiều tính
truyền thống Việt Nam điển hình, trong đó có truyền thống thực dụng, không có
tư tưởng, không chính thống, không coi trọng lý luận (chỉ dùng lý luận khi cần
ngụy biện). Cứ chấp và mỗi thứ một tý, vay mượn Khổng Mạnh, Mác-lê, Thích Ca,
Giê Su, Tôn Dật Tiên... đủ cả, miễn sao đạt mục đích.
- Nếu Việt Nam có nhà tư
tưởng riêng thì sao lại tự chấp nhận sự phân cấp Chủ nghĩa Mác-lênin! Tư tưởng
Mao Trạch Đông! Tác phong Hồ chủ tịch!.
Nhiều lần cụ Hồ đã khoán
trắng phần tư tưởng cho các lãnh tụ khác. Ví dụ Cụ Hồ chỉ lên ảnh của Stalin và
Mao Trạch Đông để trấn an tư tưởng cán bộ: Tôi có thể sai, nhưng những ông này
không thể sai!, Tôi không viết lý luận, lý luận Bác Mao viết cả rồi!.
- Có người lại viện dẫn
định nghĩa của Lênin về Nhà tư tưởng, và nói rằng theo định nghĩa ấy thì Hồ Chí
Minh dứt khoát là Nhà tư tưởng!
Nếu có Nhà tư tưởng thật
thì đâu phải định nghĩa mới thành Nhà tư tưởng. Dân tộc không cần một Nhà tư
tưởng theo định nghĩa. Một người yêu chẳng hạn mà chỉ theo định nghĩa thì ngán
biết chừng nào?
- Tôi không biết vẽ mà bạn
phong tôi là danh họa bậc nhất thế giới thì đúng là bạn xỏ tôi rồi! Lập tức
những người thân nhất của tôi sẽ cười bò ra: Đúng rồi, có lần anh ấy vẽ ảnh
tặng em, lập tức em đem treo ở chuồng gà, thế là em không bị mất gà nữa. Thành
trò đùa, thế có phải là tự nhiên lại làm khổ tôi không?
Lưu Thiếu Kỳ đã chẳng xỏ
Mao Trạch Đông bằng cách đi đâu cũng chìa cuốn Mao tuyển đỏ chót ra đấy thôi!
Yêu nhau thì lại bằng mười hại nhau là vậy đó!
- Sao bao nhiêu năm không
thấy tư tưởng Hồ Chí Minh, bây giờ thấy Mác-Lê hết thiêng rồi mới dựng cụ Hồ ra
thay thế? Định chơi bài lấp lửng chứ gì, bảo cụ Hồ vẫn là Mác-lê cũng được, mà
bảo cụ Hồ chỉ mượn Mác-Lê là phương tiện cho Dân tộc thôi cũng được!
- Ôi dào, có bày ra chương
trình nọ chương trình kia thì mới rút được tiền ngân sách ra mà chia nhau, chứ
họ thiết gì. Nếu yêu mến Cụ thật thì người ta đã chẳng chữa Di chúc...
Vậy là Kính chẳng bõ
phiền!
Người ta so sánh: xét về
tầm Trí tuệ và Tâm huyết của Lãnh đạo thì chiến dịch Tư tưởng Hồ Chí Minh cũng
hao hao giống tính chiến dịch làm lại Quốc ca năm xưa vậy. Sợ rồi kết thúc lại
cũng như thế!
Nghiên cứu những nhân vật
lịch sử là thuộc khoa học lịch sử, là chuyện lâu dài. Nhiều tư liệu về Chủ tịch
Hồ Chí Minh còn đang được phát hiện, nhiều sự đánh giá đang được bổ sung chỉnh
lý. Phát huy tác dụng của những nhân vật lịch sử để có ích cho xã hội trước mắt
là việc rất nên làm, nhưng cũng chỉ nên làm có mức độ, và phải trung thực với
sự thật lịch sử, tô vẽ thêm hay xuyên tạc đi đều có hại như nhau. Uy tín có một
thuộc tính là luôn luôn phải được cập nhật hóa và không mượn được. Thế hệ hôm
nay chọn con đường nào là việc của thế hệ hôm nay. Không thể lấy sự lựa chọn
của Bác Hồ để cấm sự lựa chọn của thế hệ hôm nay; cứ đem ra cho toàn dân xét
duyệt đàng hoàng, cái nào tốt, đúng, hợp với thế giới ngày nay thì dùng. Cũng
như không thể lấy sự lựa chọn của chúng ta hôm nay để hù dọa thế hệ con cháu
chúng ta; vấn đề là phải giúp thế hệ sau chuẩn bị cái vốn Trí tuệ và Nhân tính
để họ có đủ bản lĩnh mà tự lựa chọn, chứ không thể làm thay. Uy tín hôm nay thì
hôm nay phải tự mình tạo ra, nếu không ắt người ta bảo mình là kẻ ăn mày dĩ
vãng.
Chia
tay ý thức hệ
Phần 3
Tầm
văn hóa thấp của trào lưu cộng sản
10) Hỏi:
Quan hệ giữa Tranh đấu Nhân quyền và Văn hóa?
Đáp: Mọi
hoạt động Tranh đấu của con người từ cổ chí kim, không có gì ra ngoài ý nghĩa
của chữ quyền con người. Quyền con người ngày nay đã trở thành vấn đề toàn cầu
không nước nào có thể lẩn tránh, điều ấy đánh dấu một bước trưởng thành khổng
lồ của văn minh nhân loại. ở đâu có áp bức bất công, ở đâu con người bị đối xử
phi lý đều có thể tìm nơi Quyền Con Người một điểm tựa để tranh đấu, ít nhất
cũng là điểm tựa tinh thần. Mặt khác, từ ánh sáng chung nhất về Quyền Con
Người, con người có thể nhìn lại những trào lưu Tranh đấu của mình một cách có
cơ sở khách quan, khoa học và sáng suốt hơn.
Đã có nhiều cách tiếp cận
để phân loại Quyền Con Người, nhưng cách tiếp cận sáng tỏ nhất cho nhận thức là
tiếp cận từ quan điểm Tiến hóa. Khi từ bầy đàn chuyển thành xã hội. Con người
cũng chuyển từ cuộc sống Sinh vật sang cuộc sống Con người, rồi từ chưa văn
minh đến văn minh hơn... Càng văn minh, nội dung tính Người càng mở rộng, thì
Quyền Con Người cũng do đó được nâng cao dần. Càng cao bao nhiêu thì càng có
tính Văn hóabấy nhiêu.
Với cách tiếp cận Tiến
hóa, cũng là cách tiếp cận mang tính Văn hóa, nội dung Nhân quyền có thể xếp
thành 3 bậc:
a) Quyền làm Người trước
hết là Quyền được sống, hay quyền sinh tồn một cách tối thiểu như một sinh vật,
và được Tự Do về thân thể. Tạm gọi là Nhân quyền bậc 1.
b) Tiếp sau đó là Quyền ấm
no, nói rộng ra là quyền được chia sẻ những tiện nghi vật chất với những người
trong cộng đồng trong đó con người sinh sống và làm việc. Quyền này tuy mang
tính vật chất, nhưng cũng là sản phẩm đặc hiệu của xã hội loài người. Quyền này
tuy đã có tính Văn hóa, nhưng còn thấp (Văn hóa theo nghĩa rộng, là tổng thể
các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy, trong sự
tương tác với tự nhiên và xã hội). Tạm gọi là Nhân quyền bậc 2, phần nào tương
đương với quyền Kinh tế.
c) Cao nhất là những quyền
của Con người văn minh, là những quyền mang giá trị tinh thần, gồm các sinh
hoạt tư tưởng, khoa học, văn hóa, nghệ thuật... liên quan đến các nhu cầu hưởng
thụ cao, nhu cầu thẩm mỹ, nhu cầu sáng tạo các giá trị tinh thần, và nhu cầu
làm chủ xã hội. Tạm gọi là Nhân quyền bậc 3 (hay Quyền tự do dân chủ). Đây là
những quyền có tính VĂN HóA cao.
(Tất cả những khái niệm
vẫn được dùng trong Quyền Con người như quyền kinh tế-xã hội, quyền chính trị,
quyền dân sự, quyền văn hóa..., rồi quyền sống, quyền Tự Do, quyền mưu cầu hạnh
phúc... v. v... đều mang những nội dung không thể tách biệt rành mạch, chỉ nên
hiểu một cách linh động, qui ước thôi).
11) Hỏi:
Vị trí của phong trào Cộng Sản trong tiến trình phát triển VĂN HÓA và QUYỀN CON
NGƯỜI ?
Đáp: Ba
bậc thang nói trên của Quyền Con người không hoàn toàn tách rời nhau, song về cơ
bản nếu chưa có bậc thấp thì chưa thể có bậc cao hơn.
Chưa có bậc thang nào thì
phải đấu tranh cho bậc thang đó. Loài người phát triển không đều, nên cả 3 cấp
Văn hóa, 3 cấp Nhân quyền, và do đó 3 cấp Tranh đấu luôn cùng có mặt trên thế
giới. Trong khi người này, ở đây, đang đòi quyền Tự Do tư tưởng, Tự Do ứng cử
(nhân quyền bậc 3) thì người kia, ở kia thì phải đòi quyền được làm việc và trả
lương công bằng (nhân quyền bậc 2), và có khi ở ngay nơi đó, có người chỉ mong
đòi cho được quyền Tự Do thân thể, an toàn sinh mạng (nhân quyền bậc 1).
Trong bài lý luận Đôi điều
suy nghĩ... trước đây, tôi đã đưa ra khái niệm Quan hệ dọc và Quan hệ ngang
trong sự tiến hóa xã hội. Một Hình thái Kinh tế-Xã hội tốt hay xấu cho thấy mối
quan hệ dọc của xã hội ấy trong dòng tiến hóa, là tiến hóa hay thoái hóa. Nhưng
không phải mọi thành viên trong xã hội ấy đều được hưởng (hay bị chịu đựng) mức
độ cao hay thấp của xã hội. Tương quan công bằng hay không công bằng giữa những
người đang sống trong cùng một xã hội (hay giữa những dân tộc, những quốc gia
đương thời), tạo ra mối quan hệ ngang. Quan hệ dọc và ngang độc lập với nhau
nhưng tác động tương hỗ tới nhau.
Thế kỷ 18-19, con tàu Văn
minh Công nghiệp bắt đầu tăng tốc, gây sốc mạnh trên khắp thế giới, khiến cho
khoảng cách Nhân quyền tách ra rất xa. Trong Quan hệ dọc, đây là sự tiến bộ rất
lớn của xã hội, nhưng trong Quan hệ ngang nó tạo sự mất công bằng ghê gớm. Một
loạt ông chủ thành tỷ phú trong khi vô số người khác bị bần cùng hoá. Hình
thành một giai cấp Vô sản đông đảo, chẳng những bị bần cùng hoá mà bị đe dọa cả
sự sống còn. Được trang bị lý luận Mác xít, họ cùng với những người lao khổ
khác trở thành lực lượng trung tâm của phong trào Cộng Sản.
Từ một sức sống thấp như
vậy, cả về vật chất cũng như tinh thần họ đứng lên đòi Quyền Con người, thực
chất là đòi Quyền sinh tồn tối thiểu và Quyền được ấm no, tức là tranh đấu cho
bậc thang thứ nhất và thứ 2 của thang Nhân quyền ứng với tầm Văn hóa thấp, như
đã trình bày.
(Có thể họ có ước mơ xây
dựng một cuộc sống Cộng Sản rất cao sau này, nhưng đấy lại là chuyện khác,
chuyện ấy không thuộc phạm vi tranh đấu và đòi. Ai ước mơ gì cứ việc ước mơ,
nhưng không ai có thể đòi xã hội cái sản phẩm mà chưa ở đâu có, lại càng không
có quyền bắt người khác phải ước mơ như mình).
Nội dung phong trào Cộng
Sản gồm 2 mặt:
° Nhu cầu có tính chất
khách quan đối với trào lưu Cộng Sản là một cuộc đòi Quyền Con người tối thiểu
cho những người cùng khổ, tức là để giải quyết mối quan hệ ngang về sự công
bằng, trong đó có sự công bằng giữa các dân tộc, việc này thì lịch sử giao phó
thật, và phong trào Cộng Sản đã có những đóng góp xuất sắc.
° Còn việc muốn tạo ra một
xã hội mới khác hẳn, văn minh hơn, giải quyết sự nghiệp tiến hóa trong quan hệ
dọc, thì đây là một hoang tưởng. Hoang tưởng này tuy có cung cấp thêm sức mạnh
cho cuộc đấu tranh trên kia, nhưng không được lịch sử giao phó nên lịch sử cũng
không cung cấp những tiền đề, do đó chẳng những không thành sự nghiệp gì mà
trái lại còn gây ra những điều kỳ quái, mà bây giờ lịch sử đang giao nhiệm vụ
phải sửa chữa, xếp dọn lại tất cả những ngổn ngang bê bối ấy.
Tóm lại Cộng Sản là một
trào lưu đấu tranh cho Nhân quyền tối thiểu, ở tầm Văn hóa thấp.
Muốn hiểu điều này, còn
cần phải phân biệt tính chính đáng hay tính bức thiết của một phong trào tranh
đấu với tầm văn hóa của phong trào ấy. Càng ở tầm văn hóa thấp bao nhiêu thì
tính bức thiết của một phong trào tranh đấu càng cao bấy nhiêu (và cũng có thể
hiểu là càng chính đáng bấy nhiêu) vì càng thiếu những điều kiện mang tính sinh
vật bao nhiêu thì càng khó sống (theo nghĩa sinh vật) bấy nhiêu. Tính chính
nghĩa không đồng nghĩa với tính Văn hóa.
Mặt thứ hai, phải hiểu
quan hệ giữa chiến thắng và văn hóa. Về toàn cục thì kẻ chiến thắng sau cùng là
Văn hóa, nhưng trong một trận cọ xát trực tiếp thì thường xảy ra điều ngược
lại: càng có tầm văn hóa thấp càng dễ chiến thắng, cái bạo tàn dễ thắng cái văn
minh. Quy luật này thấy rõ ngay trong đời sống hàng ngày.
Tính văn hóa thấp của
những Quốc tế Cộng Sản được in dấu ở tất cả mọi mặt của phong trào ấy. Chỉ cần
dẫn ra mấy dấu vết đã in vào bài Quốc tế ca cũng đã chứng minh:
Về lời ca để hiệu triệu và
tập hợp lực lượng: Vùng lên, hỡi các nô lệ ở thế gian. Vùng lên, hỡi ai cực khổ
bần hàn... Những đối tượng này là ở bậc thang đáy của xã hội. Bức thiết phải
dành hết tình cảm cho họ, bức thiết phải đem lại ngay quyền sống cho họ, nhưng
trào lưu tranh đấu mà họ lãnh đạo thì chỉ có thể là một trào lưu ở tầm văn hóa
thấp, tương xứng với họ, là điều quá hiển nhiên.
Bao nhiêu lợi quyền ắt qua
tay mình là động cơ thật của cuộc tranh đấu. Biện pháp giải quyết là phá sạch
tan tành, quyết phen này sống chết mà thôi để tước đoạt lại kẻ đã tước đoạt như
Chủ nghĩa đã chỉ rõ.
Cả đối tượng mục tiêu lẫn
biện pháp đều ở tầm văn hóa thấp.
Bây giờ nhiều người trong
đội ngũ Vô sản ấy đã trở thành đại hữu sản do tước đoạt. Họ sẽ nghĩ sao nếu
những người dưới mức nghèo khổ đông đảo ở nước ta bây giờ cũng hô hào nhau lặp
lại một phong trào tước đoạt lại như thế? Hẳn họ phải lên án đó là cách làm vô
văn hóa chứ gì nữa.
Nếu thấy cần làm lại những
bài ca, thì đáng lẽ phải làm lại bài Quốc tế ca này chứ không phải làm lại Quốc
ca! Sản phẩn của phần Dân tộc nói chung là lành mạnh, sản phẩm của phần cách
mạng giai cấp mới là cái cần được làm lại!
Nhưng nói vậy thôi. Cái
đáng phải làm lại nhất là làm lại toàn bộ Học thuyết, mà tính khoa học của nó
đã được ngộ nhận hoặc được châm chước, bởi người ta nghĩ rằng đấu tranh đây là
trận cuối cùng. Cốt sao lợi quyền về tay cái đã. Ta đấu tranh rồi, ta tước đoạt
được rồi thì trường đấu tranh từ đây khóa sổ, không ai được lộn xộn gì nữa, từ
đây là hợp lý rồi, không phải xét lại nữa?
Liệu như thế có phải là
qua cầu rút ván chăng? Tầm Văn hóa như vậy là cao hay thấp?
_ tưởng lấy Búa và Liềm
làm biểu tượng cho lực lượng tiên tiến nhất, tiêu biểu cho Thời đại cũng là một
cảm hứng ở tầm Văn hóa ấy. Nhưng có thể nào khác được, khi trào lưu Tiến hóa ấy
lấy động lực ở người cùng khổ, lấy điểm tựa ở sự bần cùng?
một cuộc tranh đấu có tầm
Văn hóa cao, sự chọn lựa chỉ là giữa cái đã tốt với cái tốt hơn, tức là đấu
tranh trong hòa bình, không có tình huống một mất một còn.
Cuộc đấu tranh giai cấp
một mất một còn luôn gắn liền với bạo lực và chiến tranh, nó sẵn sàng mua chiến
thắng bằng cách hủy diệt môi trường (như dẫu phải đốt sạch cả dãy Trường sơn!),
hủy diệt những công trình văn hóa (như chính sách tiêu thổ kháng chiến), và hủy
diệt con người ( đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng, Tổ quốc hay là chết, và
cả chục triệu người Việt đã thành vật hy sinh cho cuộc chiến...) thì dẫu có anh
hùng và chính nghĩa đến đâu cũng chỉ là những trào lưu có tính văn hóa thấp.
Khi nào vươn được tới tầm văn hóa cao hơn, người ta sẽ thấy những chiến thắng
ấy thật đáng ghê sợ. Lúc ấy hồi tưởng lại những bà mẹ đã tự hào vì cống hiến cả
chồng và 7-8 người con cho cách mạng, người ta sẽ rùng mình hơn là kính phục.
tầm Văn hóa cao, người
tranh đấu không bao giờ chỉ quan tâm đến chiến thắng của mình mà quên những giá
trị chung của xã hội. tầm văn hóa cao thì sự tranh giành quyền lãnh đạo sẽ xảy
ra giữa những người đã ở tầm cao, có tài sản và sự nghiệp để bảo hành. Trong
thực tế, không ai dám chơi với những kẻ nếu mất, nó chỉ mất cái xiềng; còn nếu
được thì lại được cả thế giới (!). Vì trong trường hợp ấy, con người không còn
gì để đắn đo cân nhắc, nó chỉ có một con đường là lao vào cuộc sinh tử (quyết
phen này sống chết mà thôi!), và sẵn sàng phá sạch tan tành tất cả những gì cản
đường. (Ta nhận rõ tính kém văn hóa của những người ấy nhưng không quy lỗi cho
họ!). Họ sẽ tuyệt đối hóa mục tiêu Thiện một cách chủ quan và sẵn sàng làm mọi
việc c mà không hề phải cắn dứt lương tâm. Họ sẽ quyết định những điều hệ trọng
một cách đơn giản, họ sẽ coi rẻ sinh mạng của họ cũng như sinh mạng của cả dân
tộc!
Một sức mạnh như thế rất
khó cho việc chống lại, nhưng lại rất dễ cho việc lợi dụng! Xta-lin, Mao trạch
Đông... đã là những nhà lợi dụng vĩ đại, và đã đào tạo biết bao nhiêu học trò!
Nhân đây, tôi xin mở ngoặc
để nói đôi lời về những tác phẩm viết về chiến tranh. Người ta thấy Nỗi buồn
chiến tranh của Bảo Ninh là không chấp nhận được. Bây giờ hãy ví dụ: gia đình
ta đang sống yên ổn thì bị cướp. Đương nhiên cả nhà phải đứng dậy đánh cướp,
bỗng dưng ta thành những kẻ phải giết người để tự vệ. Giả sử ta đã giết sạch
được cả mười tên cướp chết nhăn răng ra, thì khi phải nhìn lại cuộc chiến đấu ấy
ta nên kể lại một cách hứng khởi, vênh váo hay nên coi đó là một kỷ niệm buồn
trong đời? Tôi nghĩ chẳng những phải biết buồn mà suốt đời còn phải tự day dứt.
Càng phải day dứt hơn nếu đã hy sinh mất những người thân và những người ưu tú.
Càng có văn hóa càng thấy day dứt. Bởi mình còn tồi, còn kém nên có nhiều cuộc
chiến tranh bất đắc dĩ phải làm, nhưng không có cuộc chiến tranh nào lại đáng
tự hào cả.
12) Hỏi:
Đâu là tương lai của nền Văn hóa Vô sản?
Đáp: Mỗi
Thời đại có Văn hóa đặc trưng của nó. Bằng biện pháp Cách mạng, với bạo lực
quần chúng và tận dụng thời cơ, người Cộng Sản có thể giành được quyền lực ngay
tức khắc, nhưng có xây dựng nổi nền Văn hóa đặc trưng của mình hay không, điều
ấy mới xác định vị trí của mình trong lịch sử là có thật hay không. Thành bại
cuối cùng là ở Văn hóa. Hãy nhìn lại xem việc xây dựng nền Văn hóa Vô sản thành
bại ra sao?
Chiến dịch xây dựng Con người mới :
Suốt từ những năm 60-70,
khi ấy tôi dạy học nên được chứng kiến một chiến dịch dai dẳng, và vất vả của
chúng ta để cố xây dựng cho được hình mẫu Con người mới Xã hội Chủ nghĩa. (Bác
Hồ nói: Muốn xây dựng chủ nghĩa Xã hội phải có những Con người Xã hội chủ
nghĩa). Sách giáo khoa, tài liệu tuyên giáo, truyện ngắn, truyện dài, sân khấu,
điện ảnh, báo chí, phong trào Đoàn Thanh niên Cộng Sản, Đội Thiếu nhi Bác Hồ...
xây mãi mà không mẫu nào có thể đứng được. Nếu không bám víu vào những phẩm
chất truyền thống như lòng yêu nước, lao động cần cù, chịu đựng gian khổ hy
sinh, thương người hoạn nạn... thì Con người mới không còn có da có thịt gì cả.
Cái chất mới và xã hội chủ
nghĩa, chất giai cấp, chất Đảng, chất thời đại tô vẽ mãi vẫn cứ mờ nhạt, khô
cứng, thậm chí (nhiều nhà văn, nhà báo kể cho tôi nghe) khối lời nói anh hùng,
nhân vật anh hùng là do ta bịa ra. Nhưng ngần ấy thứ con người mới giả vẫn
không địch nổi cái đội ngũ hùng hậu của những con người mới thật, tệ hại, bằng
xương bằng thịt cứ tuôn ra từ cuộc đời thật, ngày càng đông về số lượng và
chủng loại, càng điển hình và độc đáo về phẩm chất.
Học dốt, bị cô giáo cho
điểm kém, bèn lừa lúc cô một mình trong lớp, dùng dao dọa, bắt cô đứng lên bàn,
tụt quần ra, thế thôi!... Con muốn lấy tiền của bố, bèn cắt tiết bố hứng vào
chậu hẳn hoi rồi cho lợn ăn. Chồng băm thịt vợ cho vào chum nước rồi dùng dây
may xo để nấu. Công an bảo vệ trên cầu Chương dương Hà Nội cũng cướp của, giết
người (mà có cấp chính quyền còn định bao che)... v. v... Báo Công an thành phố
Hồ Chí Minh nổi tiếng nhiều độc giả nhất vì chuyển tải được cái vốn người tốt
việc tốt rất phong phú ấy.
Xe khách đang chạy, bỗng
trước mặt hiện ra hai ông Công an mặc sắc phục, cầm dùi cui đàng hoàng, đưa còi
lên miệng. Người tài xế bảo phụ lái: Hôm nay làm ăn không được, mày thí cho
chúng nó 5 đồng thôi! rồi quay sang cười nói với tôi: bây giờ đâu cũng thế cả,
bác đừng cười! Anh phụ lái giở cái giấy phép ra, khéo léo kẹp tờ 5 ngàn vào
giữa, hơi thò ra một tý để ai có tình ý thì nhìn thấy, rồi nhảy xuống để trình,
xe lại chạy ngay chẳng cần kiểm tra.
Giữa giờ, một anh bạn đến
thăm tôi. Tôi hỏi đùa: Đang giờ chính quyền mà đi được à? Anh bạn tôi cũng
cười: Mình không tài ăn cắp thì ăn cắp tý thời gian vậy. Ăn cắp thời gian bây
giờ là lương thiện nhất đấy ông ạ!. Tôi bảo: Sao bây giờ cậu ăn nói mất lập
trường thế? Anh lại bô bô: Mình là con người cũ nên cứ nói toẹt ra, chứ có phải
con người mới đâu mà vòng vo!
Trong một cục diện xã hội
như thế, con người mới lý tưởng nào có thể sống được?
Có thể nói 90 phần trăm
tác phẩm văn học được giải trong những năm gần đây là tác phẩm phản diện mang
tính phê phán, và những điển hình xây dựng thành công là những điển hình về mặt
trái của Con người và xã hội. Người ta bảo: hãy quên chuyện Con người mới đi!
hãy tìm lại những con người cũ tử tế. Nhiều bài báo viết: Bao giờ cho đến Ngày
xưa?
Rất nhiều cuộc Về nguồn
được tổ chức: Nào thi sáng tác văn thơ Về nguồn, đua xe đạp Về nguồn! Nào thi
học sinh giỏi theo nghi thức thời cổ Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ... Chưa biết
trong đục thế nào, và mỗi người Về nguồn với một ý đồ khác nhau, nhưng người ta
đua nhau Về nguồn, vì ai cũng thấy trước mắt mình nhiều cái mới nhăng nhít quá!
Có lời bình rằng: Trước đây bỏ nguồn để đi tìm Thiên đường Cộng Sản, nay lại hò
nhau Về nguồn, thật như đèn cù!
Còn đang cố tìm một mẫu
người Trung với Đảng, Hiếu với dân thì đùng một cái, một ông cán bộ Cộng Sản
khá cao cấp là Thân Trung Hiếu, đầy đủ cả Trung cả Hiếu, làm tiêu luôn của Dân
48 tỷ đồng! Dân bảo: Tay này chắc là Trung, nhưng mà bất Hiếu!
Truyện Con người mới kể cả
ngày không hết.
Không gì bê bối hơn một
nền Văn hóa như thế.
- Nói đến Văn hóa Vô sản,
không thể quên nước Cộng Sản lớn, quê hương của Con người mới Lôi Phong, của
cuộc Đại Cách mạng Văn hóa, với mười mấy triệu Hồng vệ binh vô học choai choai,
dám đốt hết sách vở và lôi cả những nhà Văn hóa ra đấu tố, quét sơn đỏ khắp
người rồi lôi đi diễu trên đường phố; với hàng đoàn xe tăng đi nghiến nát những
em sinh viên nhịn đói để đòi Dân Chủ; với công đào tạo ra những tên lính
Pôn-pốt ở tuổi chưa ráo máu đầu đã một mình dùng cuốc đập chết cả ngàn người
trong tay!...
Những hiện tượng đại văn
hóa ấy mà không phải do bản chất thì do ngẫu nhiên chăng? Hay do Đế quốc Phong
kiến để lại?
Không phải ngẫu nhiên mà
cái pháo đài Cộng Sản nổi tiếng giáo điều với quan điểm Đế quốc Mỹ là con hổ
giấy, gió Đông thổi bạt gió Tây... lại cũng chính là nơi sản sinh ra quan điểm
đổi mới thực dụng nổi tiếng Mèo trắng mèo đen không quan trọng, miễn là bắt
được chuột!. Có thể coi hai thái độ cực tả và cực hữu ngược nhau ấy là quan hệ
bù trừ, nhân quả. Nhưng nghĩ lại thì thấy hai thái độ ấy cũng là một mà thôi,
đều phản ánh cùng một bản chất duy lợi của tầng lớp cầm quyền, cùng một xảo
thuật tuyên truyền, và cùng một tầm văn hóa.
Khi trước giáo điều bao
nhiêu thì nay lại thực dụng bấy nhiêu, ta với Tàu cũng một mẹ sinh ra cả!
Tóm lại, khi mẫu người
Phong kiến đã hết thời thì phải hướng con người theo những giá trị phổ quát của
thế giới hôm nay: con người của văn minh công nghiệp và tin học, của kinh tế
thị trường, của dân chủ pháp trị. Nếu cứ chập chờn, nghĩ đến một thứ con người
mới xã hội chủ nghĩa giả định nào đấy, thì hiệu quả là dứt con người ra khỏi
văn minh nhân loại và nếu không trở nên những bóng ma ảo tưởng, thì lại thành
những kẻ lưu manh.
Thiếu Văn hóa từ gốc
Một nền văn hóa có thể bị
băng hoại dần dần do những sa sút của chính trị và kinh tế. Nhưng nền Văn hóa
Vô sản tự nó đã có những khiếm khuyết, ngay cả lúc còn thịnh trị.
° Nền Đạo đức Vô sản thâu
nạp đủ điều đạo đức của Nho giáo, từ Trung, Hiếu, Đức, Tài, Lễ, Nghĩa, đến Cần
Kiệm Liêm Chính, đến Chính tâm tu thân, đến kế hoạch trăm năm trồng người, đến
điều lo trước thiên hạ, hưởng sau thiên hạ, đến Dân là gốc, coi cán bộ là nô
bộc của dân, dĩ bất biến ứng vạn biến... tất cả đều đã có trong sách vở Nho
giáo.
Duy có chữ QUÂN Tử là cái
tử tế nhất của Nho giáo thì ta tránh hẳn.
Các nhà lý luận viện cớ
rằng Quân tử là tầng lớp bóc lột nên ta không học.
Nếu những phạm trù NHÂN,
THIỆN, ĐỨC còn mang tính lý tưởng, hoặc còn chung chung, trừu tượng, thì phạm
trù QUÂN TỬ đưa thiện ác vào tới con người cụ thể, tới tình huống cụ thể, thái
độ ứng xử cụ thể. Mỗi tình huống ấy là một cuộc thử thách quyết liệt: anh nói
anh thiện, anh đạo đức thì anh thể hiện ra đi, quyết định lấy một thái độ ứng
xử đi; hoặc là hành động một cách QUÂN TỬ, hoặc là hành động một cách TIỂU
NHÂN!
Những bài học về QUÂN TỬ thiết
thực lắm. QUÂN TỬ rất gần với TRƯNG PHU và THƯNG V. Người ta thua trận, người
ta nằm trong tay anh rồi, anh làm gì người ta cũng phải chịu, thì anh sẽ đối xử
thế nào? Hoặc là anh học người xưa, đem tất cả sổ sách thù hận đốt đi để coi
nhau như anh em, hay anh lục đống hồ sơ cũ ra, bới lông tìm vết để phân biệt
đối xử?
Anh có mọi quyền lực trong
tay, anh muốn nói gì, nói cả ngày cũng được, thì anh có nhường một tờ báo, một
diễn đàn cho những người khác trình bày tiếng nói của họ hay không?
Anh nắm hết mọi sức mạnh
trong tay, muốn bày đặt cái gì cũng được, thì anh có dành cho Nhân dân một Hội
đồng để giúp anh thu thập tiếng nói của Dân, hay anh lại tìm cách đưa Bí thư
Tỉnh ủy, Bí thư Thành ủy sang phụ trách luôn Hội đồng Nhân dân cho nhất quán?
Anh có quyền ký một chữ
thì người khác có nhà ở, vậy anh có thắng nổi cái lòng tham của con người, dám
trọng nghĩa khinh tài mà từ chối mấy lạng vàng đút lót để dành cái nhà ấy cho
một thày giáo nghèo được không?
Bởi nó cụ thể như thế nên
Đạo đức giả thì dễ nhưng Quân tử giả thì không dễ chút nào, thiệt đến quyền lợi
sát sườn ngay! Người Cộng Sản thích chơi trò Đạo đức nhưng không dám chơi trò
Quân tử. Chủ nghĩa phong kiến so với ngày nay thì vô cùng tồi tệ, nhưng thời
thịnh trị nó đã cung cấp cho loài người rất nhiều Người Lớn, là nhờ có một tinh
thần QUÂN TỬ. Dùng Đạo đức, con người vẫn có thể lừa cả mình, nhưng khi trong
lòng đã cất lên tiếng QUÂN TỬ thì con người phải đối diện với chính lương tâm
nó, không trốn vào đâu được.
° QUÂN TỬ thì phải CHÍNH
DANH! Có người bảo Chính danh là thủ đoạn của bọn thống trị nhằm phân biệt ngôi
thứ. Không đúng! Công bằng hay không là ở chỗ định danh, định nội hàm của Danh,
chứ khi định Danh rồi thì phải theo Danh mà làm! Danh một đàng, Thực một nẻo
đại loạn.
Thủ tướng Phạm Văn Đồng
yêu cầu: Trường ra trường, lớp ra lớp, thày ra thày, trò ra trò! là rất đúng,
là phải chính danh!
Nhạc trưởng cũng phải ra
Nhạc trưởng! Anh muốn điều khiển dàn nhạc thì anh đứng ra giữa sân khấu mà bắt
nhịp cho mọi người trông thấy, chứ không thể chơi trò giật dây từ trong hậu
trường, hay đứng lấp ló ở chỗ cánh gà sân khấu, chờ xem nếu được hoan hô thì ra
nhận hoa, mà bị la ó thì chuồn thẳng, tìm mãi chẳng biết ai vừa chỉ huy!
Anh muốn chỉ huy cũng được
(cứ cho là được đi), nhưng nếu chỉ hiến định sự chỉ huy, mà không luật hóa sự
chỉ huy ấy thì ai chẳng thích chỉ huy? Nếu có luật lãnh đạo (lãnh đạo kém, gây
thiệt hại lớn sẽ bị đi tù!) thì chắc Đảng sẽ tự xin rút Điều 4 trong Hiến pháp.
Có luật ấy thì khối lãnh tụ Cộng Sản đã đi tù lâu rồi, không tin cứ đưa ông Lê
Đức Thọ ra Tòa án của Nhân dân làm ví dụ thử xem.
Dân mình có thói khôn vặt:
Nói thế mà không phải thế! Nói dzậy mà không phải dzậy, nên khi gặp chủ nghĩa
Mác-Lê thì tâm đắc vô cùng, cả hai đều thích nhân danh nhưng không thích CHÍNH
DANH.
Trong cuốn Đề cương giới
thiệu Dự thảo Cương lĩnh Xây dựng Chủ nghĩa Xã hội trong thời kỳ quá độ (tức
Cương lĩnh của Đại hội Đảng lần thứ 7) có câu: Nguyên tắc thứ nhất nói về xây
dựng Xã hội Chủ nghĩa, tuy không dùng chữ Chuyên chính Vô sản, nhưng nội dung
của nó vẫn quán triệt bản chất Chuyên chính Vô sản (Sđd. trang 15).
Có lẽ do quá quen với
phương pháp luận Mác-xít, nên người viết câu ấy không cảm thấy tính TIỂU NHÂN
trong đó. Thử hỏi tại sao thế: Nếu thấy Chuyên chính Vô sản là hay thì phải
công khai bảo vệ luận điểm ấy, nếu thấy là dở thì phải thực tâm từ bỏ, chứ
ngoài mặt nói với dân không có Chuyên chính mà nội bộ Đảng thì lại dặn nhau; Cứ
Chuyên chính mà làm! Thì chẳng Quân tử tý nào?
Điều nói dối ấy đã làm dân
mất lòng tin, đã đành, nhưng trong Đảng thì đấy chính là sự dạy nhau nói dối,
và Đảng viên sẽ dùng cách ấy để ứng xử với Đảng: Nghị quyết nói thì cứ để Nghị
quyết nói, mình có cách vận dụng của mình, Nghị quyết dzậy mà không phải dzậy!
Người Việt Nam muốn ra
người Quân tử đã khó, người Cộng Sản Việt Nam muốn ra người Quân tử lại càng
khó hơn. Bởi thế tôi thật kính trọng thái độ Quân tử của tướng Trần Độ khi ông
viết cho Đảng những dòng sau đây: Cần phải dứt khoát chọn một trong hai tư
tưởng chỉ đạo: Hoặc thực hiện Chuyên chính Vô sản, mà Đảng là đại diện và nhân danh.
Hoặc thực hiện một Nhà nước Dân chủ Pháp quyền, một Nhà nước của Dân, do Dân,
vì Dân. Không thể cứ nói nửa nọ nửa kia nhập nhằng.
° QUÂN TỬ lại gắn với LIÊM
SỈ. Liêm sĩ là biết tự xấu hổ, trước hết là với lương tâm mình. Bậc trượng phu
không được lấy nể vì Nghĩa lớn mà bước qua những điều Sỉ nhỏ. Hoàng Diệu, Phan
Thanh Giản, Nguyễn Tri Phương, tuy không có tội, nhưng xấu hổ vì không làm tròn
nhiệm vụ giữ thành nên quyết tự vẫn. Càng là bậc đàn anh thiên hạ, lòng tự Sỉ
càng phải lớn. Có khi đời tha cho mình mà mình không tha cho mình được... ở ta,
người Cộng Sản làm hỏng việc thì tìm cách chuồn lên ghế cao hơn (mà lại chuồn
được!). Chuyện ấy, địa phương nào cũng có, Trung ương lại càng điển hình. Phải
chăng vì bài ca lợi quyền kia đã ngấm vào xương thịt?
Để riễu cái thói đạo đức
giả nhưng lại vô sĩ, bám ghế đến cùng, người dân nhại lời các quan chức thế
này: Ông không ham chức quyền, ông chỉ ham phục vụ, ông quyết ở lại làm đầy tớ
của dân! Đứa nào ngăn không cho ông phục vụ ông đánh bỏ mẹ. (!)
Nhiều lúc tôi tưởng tượng
như cả dân tộc mình đang ở trong trạng thái thôi miên.
Tôi nghĩ đến một ví dụ
khác, một người đủ tư cách thay mặt cho Đảng. Tôi không có ý định chỉ trích cá
nhân ông, một người có thể là nhân hậu, nhưng trường hợp của ông lại rất điển hình.
Trước đây ông nổi tiếng là người Mác-xít gang thép, chẳng những trong việc đánh
Đế quốc Mỹ và tay sai, mà cả trong việc đánh đồng bào mình, những nhà công
thương nghiệp tư bản tư doanh, (họ mang tiếng là Tư sản, nhưng chưa giàu bằng
các vị Tư sản đỏ của chúng ta bây giờ). Hiện ông cũng đang rất gang thép trong
việc kiên trì Mác-Lê và định hướng Xã hội Chủ nghĩa. Ấy thế mà đùng một cái,
ông ngồi sánh vai với bọn tay sai Nam Hàn (cái bọn mà tôi còn nhớ trước đây
chúng giết bộ đội mình như ngóe), ngồi để ký kết những chương trình mà chắc
chắn là phản lại cái chủ trương cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh của
ông trước đây. Tôi tự giải thích: Có thể sự quay ngoắt 180 độ này là một sự
tỉnh ngộ, đổi mới chân thành, muốn làm bạn với tất cả mọi người.
Có thể thế lắm chứ!
Nhưng, người sám hối có
những triệu chứng lâm sàng rất dễ nhận thấy. Biểu hiện buộc phải có là ngượng,
là thẹn, khiến cho những người khó tánh nhất cũng phải than thứ.
Trong trường hợp này, các
triệu chứng lâm sàng đáng yêu kia hoàn toàn không có. Người sám hối chẳng những
thản nhiên cười nói, mà lại ở tư thế quát nạt, xử tội những người đang chứng
kiến sự sám hối của mình.
Người ta không thể không
tự hỏi: Nếu lòng nhân đạo có thể giúp ông quên kẻ thù máu xương nhanh như thế
thì thật sự đáng mừng, nhưng sao đối với đồng chí, đồng đội đã chung lưng đấu
cật với nhau thì ông lại thù dai như vậy: Ông vẫn hô phải bắt ông Nguyễn Hộ,
bắt ông Hoàng Minh Chính... vì tội mắc mưu Tư bản, làm diễn biến hòa bình...
(trong khi chính ông đang cùng diễn biến hòa bình với bọn tư bản!). Tại sao có
thể làm cả hai việc ngược nhau ấy cùng một lúc một cách tự nhiên như không? Cứ
nhìn cảnh ấy mà suy thì nếu gia đình ông Nguyễn Hộ không bị Mỹ giết, mà theo
Nam Hàn để giết Cộng Sản, rồi lại theo Nam Hàn thành tỷ phú thì có phải bây giờ
đã được hưởng tấm lòng xóa bỏ hận thù và trở thành thượng khách của Đảng rồi
không? (Ông Hộ quả là đã chọn nhầm đường thật!). Ông Hoàng Minh Chính bị Đảng
bỏ tù oan mười mấy năm chưa đủ sao? Ông Nguyễn Trung Thành trực tiếp phụ trách
việc này đã đề nghị minh oan cho ông Chính rồi kia mà? Trước nỗi đau ấy thì
lương tâm một kẻ dân thường cũng bị cắn rứt chứ nói gì một người nhân danh Nhân
dân?
Tôi là người không có liên
quan gì với tất cả những nhân vật trong câu chuyện kể trên, nên điều tôi muốn
nói không phải là về thái độ của một cá nhân, mà là điều này: Tại sao tất cả
những người chung quanh, trước hết là những người hữu quan lại không ai lấy thế
làm xấu hổ, một thứ xấu hổ mà chỉ cần là một người có nhân cách bình thường
thôi cũng không chịu nổi! Mà đâu phải riêng việc đó, bao nhiêu điều quay quắt,
lộn ngược lộn xuôi rành rành trước mắt, mà lại có thể tươi tỉnh như không? Mà
điều nghĩ được cách giải thích, mà lại tiếp tục làm tuyên huấn cho mọi người
không hề ngượng mồm?
Tôi không muốn lên án
riêng ai, bởi thế tôi thấy chỉ có thể giải thích đây là một trạng thái thôi
miên tập thể. Bên tai mọi người hình như luôn nghe thấy lời ám thị: Hãy coi
chừng! Không ai được trái ý Mác-lê! Hãy coi chừng, không được trái ý Mác-Lê!.
Mác-Lê thế nào mấy ai biết? Có khi Mác-Lê giống mấy ông Công an, giống bà
trưởng phòng Tổ chức, giống khoản lương hưu, giống xấp đô la, giống những kỷ
niệm kinh hoàng một thời đói rách, giống ngôi biệt thự với chiếc xe con, giống
két bia lon với cô thư ký, hoặc có khi chỉ là một cái bóng ma rất thiêng trên
bàn thờ... Mác-Lê muôn màu muôn vẻ, nhưng đã thành một ám thị tập thể. Trong
khi quyển thôi miên ấy, con người phải quên nhân cách riêng, đặc biệt là cấm
không được hổ thẹn.
Khi học môn giải phẩu cơ
thể, chúng tôi nhớ mãi một dây thần kinh chỉ huy việc khép đùi nên tên là dây
thần kinh thẹn. Bây giờ, mỗi khi cùng nhau tâm sự chuyện đời, chúng tôi lại
nhìn nhau chua chát: Bọn mình bị liệt mất dây thần kinh thẹn rồi. (Nhưng khi
nghe những thằng bạn thao thao bất tuyệt trên Ti-vi, chúng tôi vẫn thấy thẹn
thay.).
Cảm ơn Tạo hóa đã cho Con
người biết thẹn, nếu không ai giữ Văn hóa cho Người?
Hiện tình Văn học Cách mạng:
Tính cách Dân tộc ấy, hoàn
cảnh lịch sử ấy, bản chất ý thức hệ ấy đã quyện vào nhau nhào nặn nên một tổng
thể Văn hóa đặc sắc không bút nào tả nổi. Nền Văn học hiện thực xã hội chủ
nghĩa cố kéo dài hơi thở hào hùng thời kháng chiến một cách đuối sức, tỏ ra bất
lực và mất phương hướng trước một thực tế mà nó không nhận thức nổi hay không
dám nhận thức. Một số tác phẩm bắt đầu bứt ra, thì tránh được sự giả tạo và đạt
được sự phê phán sâu cay, nhưng càng sâu cay càng không có lối ra. Giải thưởng
Văn học nào cũng có chuyện. Làm sao có thể tổ chức nổi một cuộc thi cho tử tế,
khi mà bộ Từ vựng của xã hội đang đòi phải làm lại, làm lại những từ ngữ cơ
bản, viết lại những mệnh đề cơ bản, chẳng hạn: Cách mạng nghĩa là gì, phản động
nghĩa là gì, yêu Chủ nghĩa Xã hội có phải là yêu nước không?... v. v... Người
chấm thi bị xé về hai chiều, con người chính trị phải đạo không còn chung sống
nổi với con người văn học trong một thể xác như ở giai đoạn trước, và mỗi con
người ấy trả lời những câu hỏi trên một cách trái ngược nhau.
Làm sao có được tác phẩm
tương xứng với thời đại khi nhà văn không thể nhìn thẳng vào thời đại bằng con
mắt của riêng mình? Vừa phải nhìn bằng con mắt của người khác, lại vừa nơm nớp
lo không biết trong cặp mắt kia, bên nào mắt thật bên nào mắt giả. Mắt vẫn mở,
mồm vẫn lắp bắp, tay vẫn hí hoáy viết đấy nhưng bị thôi miên rồi.
Trong xã hội quái đản ấy
đã bật ra bút pháp Nguyễn Huy Thiệp: Cái khốn nạn, lưu manh hết chỗ nói mà cứ
bình thường như không, thương nó cũng dở, giết nó không nỡ, không lần được cái
đầu mối khốn nạn nó nằm ở đâu. Làm điều tồi bại mà cứ như vô tình... Cái Thiện,
cái Mỹ thì mong manh như mây khói. Phải chửi Trí thức! Phải chửi Đạo đức! Phải
tốc ngược lịch sử lên để nhìn rõ những chân dung ngụy tạo! Cái nhạy cảm đạo đức
tuyệt vời thiên phú của anh xui anh làm thế! Nhưng anh phải nén tấm lòng xót xa
ấy, xã hội không cho anh xót xa, đất nước đang đi lên không được xuýt xoa. Vì
thương con người mà không thể thương con người (tôi thích lời bình luận ấy của
Hoàng Ngọc Hiến), vì quá xúc động nên phải viết lời vô cảm! Đọc những câu văn
tục tĩu, vô cảm hoặc độc ác của anh, tôi cứ ứa nước mắt. Chỉ riêng cái vỏ bút
pháp của anh đã chứa hết cái ruột gan của xã hội trong đó rồi. Cốt chuyện chỉ
còn là cái cớ, lúc thực lúc hư.
Xã hội quái đản ấy cũng
buộc phải đẻ ra thơ Bút Tre để phản ánh nó, khi văn học chính thống cứ ngồi lù
lù đó một cách vô tích sự. Tôi không nói ông Bút Tre ở Vĩnh Phú mà ông Ngô
Quang Nam vừa mới viết sách ca ngợi. Cái ngớ ngẩn một cách chân thành, và chân
thành một cách ngớ ngẩn, của người cán bộ văn hóa Vĩnh Phú kia chỉ là cái cớ để
dân gian tải cái ngớ ngẩn giả vờ của mình, để riễu cợt những giá trị mà công
khai họ cứ phải hoan hô. Thơ Bút Tre thật không ai thuộc làm gì, đọc rồi cũng
không nhớ được, còn Bút Tre dân gian thì mỗi lần nghe người ta đọc, tôi lại
thấy cái sức sống mới mẻ, say sưa như thế chính người ấy đang sáng tác. Câu thơ
Bút tre chính xác và thông minh, đa nghĩa, lại núp dưới cái vỏ ngô nghê đơn
nghĩa, để nhại chính cái thứ văn học công nông đại chúng tùy tiện giáo điều.
Cười bò ra, rồi chảy nước mắt... vì đau trong ruột. Tiếc rằng chưa tiện trích
dẫn ở đây.
Còn những cây đa cây đề
trong nền Văn học cách mạng thì cuộc đời văn học đều bị chia đôi:
Vị nghệ thuật nửa cuộc đời,
Nửa đời sau lại vị người ngồi trên!
(Xuân Sách, chân dung Nhà
văn)
Cái còn lại của những tài
năng văn học tiêu biểu ấy là những tác phẩm thanh xuân đầu đời, của người nghệ
sĩ tự do, những Điêu tàn, Lửa thiêng..., còn nửa sau là cái nửa lựa ánh sáng
trên đầu mà thay đổi sắc phù sa (Xuân Sách, chân dung Nhà văn) nên hỏng cả sự
nghiệp lẫn nhân cách. Người bị mất chung quy là Dân tộc. Những bài thơ di cảo
Bánh vẽ, Trừ đi, Ai tôi của nhà thơ Chế Lan Viên lỗi lạc (xem phụ lục 3) đủ để
tự phủ định toàn bộ cái nửa đời sau của cả một thế hệ văn nhân, nhưng những
ngày cuối cùng của ông lại cho thấy người nghệ sĩ đã mất nửa đời người ấy họ
đâu có thể tự do về nguồn theo lương tri của mình! Bởi họ không đủ điều kiện để
thẳng thắn trả lời câu hỏi:
Cuộc đời hai nửa vì đâu?
Nửa say Quỷ kế, nửa đau Nhân tình!
(HSP, thư gửi Xuân Sách)
Dòng Văn học mới không thể
không phản tỉnh, tự mình lật tẩy mình để tự vượt qua, vượt qua mình, vượt qua
một vùng Văn hóa thấp mà về với loài người nói chung.
Tóm lại không thể xây dựng
nổi một nền Văn hóa Vô sản, vì không có một giai cấp Vô sản tiêu biểu cho thời
đại như Mác tưởng tượng. Những xã hội trước đây đã lao theo con đường của Mác
thì nay chẳng có con đường nào khác ngoài con đường trở về với Dân tộc truyền
thống và mau chóng gia nhập vào Thời đại, mà nội dung hoàn toàn khác với nội
dung Thời đại mà các Đảng Cộng Sản thế giới trước đây ấn định.
Tình hình xã hội trong
giai đoạn chuyển đổi tất nhiên rất phức tạp. Muốn có lối ra tốt đẹp nhất cho
Dân tộc thì phải bắt đầu bằng cái nhìn Văn hóa và phải giải quyết một cách Văn
hóa. Nếu tiếp tục duy trì trạng thái Văn hóa cũ đã kém sức sống thì tình trạng
tranh tối tranh sáng sẽ là cơ hội để những thứ Văn hóa không lành mạnh xâm nhập
và chiếm lĩnh. Trong điều kiện ấy xã hội sẽ có sự ổn định bề ngoài nhưng thoái
hóa bên trong, xã hội có thể đạt những tiến bộ nhất định về Kinh tế nhưng sẽ
thoái hóa về Văn hóa nói chung. Văn hóa thấp kém sẽ phá hoại tất cả.
Chia
tay ý thức hệ
Phần 4
Đổi
mới Là tự vượt qua mình
1) Tự nhận ra mình và nhận
ra thời đại :
Lịch sử đang đặt Việt Nam
trước một bước nhảy. Không phải nhảy vọt kiểu cách mạng, nhưng cần một bước
nhảy khoa học, dũng cảm và khôn khéo. Cũng như người đi đường, có lúc phải
nhảy, nếu không thì không vượt qua được chướng ngại và bùn nhơ. Nhưng muốn có
bước nhảy chính xác cần biết rõ mình đang đứng ở đâu và phải hướng tới đâu, bị
bịt mắt thì chỉ còn cách để cho người khác dắt đi đâu thì dắt chứ nhảy sao
được.
Những phần trên, tôi đã
trình những cơ sở nhận thức để kết luận rằng:
Thực chất, Việt Nam là một
nước đang chọn nhầm phải con đường xã hội chủ nghĩa đầy tính phong kiến và ảo
tưởng, đã chót tách khỏi thế giới thông thường từ khi mình còn là một nước
phong kiến lạc hậu, nay đã đến lúc buộc phải từ bỏ con đường ấy để trở về hội
nhập với nền văn minh nhân loại, giữa lúc kỷ nguyên Văn minh Tin học đã bắt
đầu! Đã xuất phát chậm, lại bỏ phí mất nửa thế kỷ, nên việc đổi mới tất nhiên
phải khẩn trương để khỏi bị tụt hậu quá xa.
Từ nền kinh tế chỉ huy, kế
hoạch hóa, phải chuyển về kinh tế thị trường.
Từ xu hướng công hữu, tập
thể hóa, phải chuyển về sở hữu đa dạng, trong đó tư hữu là chính.
Từ nền Chuyên chính Vô
sản, và thực chất là biến tướng của Đức trị Phong kiến Chuyên chế phải chuyển
dần thành một nền Pháp trị Dân chủ Đa nguyên.
Từ quan hệ quốc tế 2 phe
thù địch (trong đó quan hệ nội bộ phe Xã hội chủ nghĩa thì theo nền nếp một đại
gia đình đức trị, bao cấp và gia trưởng) chuyển sang một quan hệ toàn cầu, đa
phương, biến động, Tự Do nhưng trong luật quốc tế văn minh, bình đẳng nhưng
trong quy luật cạnh tranh sinh tồn khắc nghiệt, bác ái trong việc cùng nhau
chia sẻ những thành quả của văn minh, nhưng đồng thời chia sẻ trách nhiệm gìn
giữ môi trường sống, cùng nhau ngăn chận và khắc phục những tai họa và dã man.
Từ một xã hội Thần dân với
uy lực tỏa xuống của một ý thức hệ với những tư tưởng, nghị quyết, và phân loại
công dân để đối xử... phải chuyển thành một xã hội Công dân bình đẳng, lấy luật
pháp, dân quyền và nhân quyền làm nguyên tắc đối xử, và vận dụng quyền lực nhân
dân từ dưới lên để khống chế và lành mạnh hóa quyền lực thống trị.
Từ một quân đội, một bộ
máy hành pháp của Chế độ, của Triều đình phải chuyển thành một quân đội, một bộ
máy thực sự của quốc gia và luật pháp.
Phù hợp với những thiết
chế căn bản ấy, thì một nền giáo dục, văn nghệ nói riêng và nền văn hóa nói
chung cũng sẽ phải thay đổi một cách căn bản.
Tóm lại, lịch sử dân tộc
đang đòi hỏi một cuộc Đổi mới sâu sắc và toàn diện, một sự tự lột xác, một sự
quay ngược các tấm biển chỉ đường, như vậy dĩ nhiên không phải để đi tiếp một
bước xa hơn trên quỹ đạo Bác Hồ đã chọn, mà để trở về thành một quốc gia lành
mạnh và tiến bộ. Cái C, tức cái chủ nghĩa Xã hội, là mô hình do Đảng Cộng Sản
chủ trương, cái MI là đòi hỏi của Dân tộc và của Thời đại.
Hai cái C và MI đó mâu
thuẫn nhau một cách toàn diện, trong đó cơ bản nhất là mâu thuẫn giữa vai trò
độc tôn của Đảng Cộng Sản với tính chất Dân chủ Đa nguyên của xã hội mới. Chẳng
ai tin rằng một Đảng Cộng Sản đang nắm mọi quyền lực trong tay tự nhiên lại
khởi xướng một cuộc Đổi mới như thế! Trái lại nếu Đảng ấy chống lại sự đổi mới
này thì cũng là điều dễ hiểu, bởi chính Mác-Lê vẫn nhắc mọi người rằng không ai
lại tự nguyện rời bỏ địa vị thống trị của mình.
Dẫu chúng ta yêu mến nhau
đến đâu cũng không được che dấu quy luật muôn đời ấy.
Nếu thực sự để quyền lợi
dân tộc lên trên, chúng ta hãy thẳng thắn đặt ngửa vấn đề ấy trên bàn, ai đuối
lý hãy tự rút lui (nhưng chữ nếu này quá khó đối với người đang cầm quyền)!
Quy luật muôn đời cũng như
thực tiễn rành rành trước mắt đều thống nhất chứng minh một điều là: Trước yêu
cầu bất khả kháng của quy luật, Đảng ta bị buộc phải đổi mới, song lại đối phó
bằng vẫn trở về với những quy luật chung nhưng theo một phương án có lợi nhất
cho mình và cự tuyệt mọi phương án khác!
Đảng ta khởi xướng là khởi
xướng cái phương án riêng ấy của mình, rồi ép Dân tộc phải lấy cái riêng ấy làm
cái chung! Giữa cái riêng ấy và cái chung có rất nhiều điểm giống nhau, nhất là
những biểu hiện bên ngoài, nhưng lại có nhiều điểm khác nhau rất căn bản. Vì
thế trước cùng một thực tiễn Việt Nam mấy năm qua mà người thì vui vì đã có rất
nhiều đổi mới, người thì thất vọng vì có những điều căn bản vẫn chẳng thay đổi
gì!
Nếu có một con đường công
tư lưỡng lợi, trong đó cái chung cũng là cái riêng, cái riêng cũng là cái chung
(như ta vẫn thường nghe) thì ai chẳng tán thành, còn mong gì hơn?
Nhưng đơn giản vậy thì
lịch sử sẽ chỉ còn là một trò đùa. Vấn đề phải đặt ra là: Nếu người lãnh đạo
được Tự Do thực hiện phương án của mình thì đất nước và nhân dân sẽ phải trả
giá ra sao? Sự trả giá của một dân tộc trước lịch sử chỉ có thể được nhận ra
nếu có một tầm nhìn ít ra là vài thập kỷ. Nhưng khi những người thiển cận đã
nhìn ra sự thật thì đoạn lịch sử ấy đã xong rồi. Khoảng thời gian chênh lệch
này đủ để kẻ cơ hội làm xong một sự nghiệp, và cũng đủ để Dân tộc tan vỡ một sự
nghiệp!
Tình huống ấy làm bật ra
tầm quan trọng của một cuộc đấu tranh không thể trì hoãn trong nội bộ dân tộc
về nhận thức. Người và Dân tộc ắt muốn phơi bày tất cả những nhận thức xuôi
ngược lên bàn để cùng nhau sàng lọc. Kẻ giả danh dân tộc ắt cấm không cho ai
nói khác mình, chỉ có mình được độc quyền dẫn dắt nhận thức của xã hội.
Trở ngại trong việc nhận thức THỜI ĐẠI:
Nội dung của Thời đại mới
là vấn đề đã được đề cập nhiều lần, ngay cả trong bài viết này, nên về mặt lý
luận chung thiết tưởng không cần nhắc lại. Thời đại mới là cái đang bày ra
trước mắt, lại là cái của toàn thế giới, mà là thế giới Tin học, thì khó che
dấu được. Ngoài những tài liệu lý luận cơ bản, người ta có thể đọc nhiều tài
liệu tham khảo, chẳng hạn như ba cuốn sách đã dịch của nhà Tương lai học An-vin
Tô-flơ (Làn sóng thứ 3, Cú sốc tương lai, Thăng trầm quyền lực). Nhưng việc
nhận thức về Thời đại mới vẫn cứ gặp trở ngại, bởi có những ngụy biện.
Về nội dung của Thời đại
mới, tại thời điểm này có lẽ ngụy biện chủ yếu chỉ còn nằm trong vấn đề Dân chủ
Đa nguyên.
Lúc đầu các nhà lý luận
Mác xít phản đối Đa nguyên một cách tuyệt đối: về nguyên tắc đã Đa nguyên là
Dân chủ Tư sản, tức là phản động! Nhưng nói thế mãi xem chừng khó xuôi bèn
chuyển sang mền dẻo hơn: Về nguyên tắc, Cộng Sản và Đa nguyên đa Đảng không
loại trừ nhau. Liên Xô trước đây, Việt Nam trước đây đã từng Đa Đảng.
Nhưng,
(Đây mới là luận điểm quan
trọng của Đảng Cộng Sản Việt Nam, xin trích):
Trong điều kiện Việt Nam
hiện nay cũng như trong tương lai, không có sự cần thiết khách quan nào để tạo
dựng nên các Đảng phái chính trị đối lập.
Một chế độ Dân Chủ chân
chính không phải được quyết định ở chỗ có một Đảng hay nhiều Đảng. Vấn đề là ở
chỗ nền Dân Chủ đó hình thức hay có thực chất, Dân Chủ do một thiểu số hay cho
đa số nhân dân. Nắm vững chân lý sơ đẳng này có ý nghĩa nguyên tắc để không bị
tuyên truyền về Dân Chủ tư sản mê hoặc và lừa mị chúng ta. (Tổng Bí thư NGUYỄN
VĂN LINH, Tạp chí Cộng Sản, số 2-1990, trang 7).
Bất cứ người Việt Nam nào
kể cả trí thức, nếu đã sống vài chục năm trong chế độ chúng ta, thì khi nghe
những lập luận trên đây của Tổng bí thư ắt cảm thất tính khúc triết của Trí
tuệ, tính đương nhiên của Chân lý và tính sang sảng đanh thép của Quyền uy.
Nghĩa là không còn mảy may nào có thể cựa quậy, nhúc nhích gì nữa.
Nhưng hãy thử động não một
chút xem sao! Cứ thử làm người có tư duy một chút xem sao! (Không tư duy thì ta
đâu còn tồn tại như một Con người?).
Trước hết xin ghi nhận đây
là kiểu lý luận rất đổi mới của Việt Nam. Nếu là trước đây thì một Tổng Bí thư
nhất định không tha thứ cho bất cứ một thứ lý luận Đa nguyên nào, song ở đây ông
đã tha thứ cho lý luận mà chỉ nói chuyện thực tế, tha thứ cho thế giới mà chỉ
nói chuyện Việt Nam. Nhưng khi đã trở về với điều kiện Việt Nam thì ông không
tha thứ cho ai nữa. Mọi thần dân đều phải nắm vững cái chân lý sơ đẳng và có ý
nghĩa nguyên tắc mà ông nêu ra. Vì đã là sơ đẳng và nguyên tắc thì không còn
khả năng nhân nhượng, nên những gì khác với nó ắt bị liệt vào dân chủ tư sản có
âm mưu mê hoặc và lừa mị, chỉ còn cách bọn phản động có một sợi tóc! Với tội
danh ấy thì được mời đi học tập là cái chắc. (Dân ta nổi tiếng là hiếu học mà
lâu nay cứ thấy nói đến học tập là hoảng!)
Chân lý sơ đẳng của Đảng
là: một Đảng hay nhiều Đảng không quan trọng, quan trọng là Đảng ấy tốt hay
không tốt! Tốt thì một Đảng cũng đủ!
Đúng quá, và nên thêm: Nếu
tốt thì một Đảng chẳng những cũng đủ mà lại còn nên cho Đảng ấy quyền trị vì
thật độc quyền và thật vĩnh viễn vào, để khỏi có Đảng nào tranh vào đấy nữa. Vớ
được cái tốt nhất thì dân tộc nào chẳng muốn giữ mãi cho mình!
Chân lý ấy quả là sơ đẳng,
nông dân sẽ hiểu ngay, trẻ con cũng hiểu ngay! Chỉ có cả loài người là phải trả
giá máu xương hàng ngàn đời cho nó, để đến hôm nay tỉnh ngộ rằng: Nếu chỉ có
một thì biết thế nào tốt với xấu, anh bảo xấu nhưng tôi bảo thế là nhất rồi,
làm gì có cái tốt hơn được, anh chống cái tốt nhất ấy thì anh là phản động! Hơn
thế, nếu chỉ có một thì dẫu cho ban đầu có tốt thực hơn trăm phần trăm, sau dứt
khoát cũng trở nên xấu, dẫu cho ban đầu có dân chủ thực chất thì sau dứt khoát
cũng trở nên dân chủ hình thức, quy luật này không có ngoại lệ. Vì người ta
khám phá ra QUY N BNH có một thuộc tính rất lạ là cứ phải có nguy cơ bị mất thì
nó mới có khả năng trở nên tử tế hoặc mới duy trì được sự tử tế.
Chắc ông sẽ cãi: nhiều
nước đa Đảng đấy nhưng có dân chủ đâu? Nếu vậy thì chúng ta chỉ còn biết nhắc
lại cái điều sơ đẳng: đa là điều kiện cần, chứ không phải là điều kiện đủ!
Bây giờ tới luận điểm cho
rằng trong điều kiện Việt Nam không có sự cần thiết khách quan nào để tạo dựng
nên các Đảng phái đối lập chính trị. đời, phàm nghe thấy lời phát ngôn cần hay
không cần là cử tọa phải nhỏm dậy để nhìn mặt người nói ấy là ai. Chẳng hạn hai
người buôn chung, lãi được 10 đồng, anh này cướp lấy 9 đồng và chia cho chị kia
một 1 đồng. Trọng tài kinh tế hỏi: Có cần chia lại không? Cử tọa thử tưởng tượng
xem nếu cái anh đã cướp 9 đồng kia lại la tướng lên rằng không cần thì khôi hài
biết chừng nào? Câu hỏi ấy là dành cho phía bị thiệt, bị ăn hiếp, chứ không
phải dành cho người đã giành được quyền lãnh đạo trực tiếp, toàn diện và tuyệt
đối!
Chị kia bị ăn hiếp, muốn
đòi chia lại nhưng lấm lét không thốt ra lời, vì sợ rằng chia lại xong. Trọng
tài đi rồi thằng kia nó sẽ nện cho nhừ xương và cướp lại, thì tiền vẫn mất, mà
tật lại mang. Nếu Trọng tài đáng bậc quan phụ mẫu thì sẽ hiểu ngay tình thế lá
có cách làm cho vấn đề được sáng tỏ. Nhưng nếu Trọng tài cũng thuộc loại quan
cướp ngày thì ắt đứng về phía kẻ mạnh, nhân lúc chị kia im lặng, sẽ tuyên bố:
Không thấy ai nói cần chia
lại, vậy kể như hiện nay, cũng như trong tương lai, không có sự cần thiết khách
quan nào phải chia lại nữa!
Thế là rất Dân chủ, rất
Pháp trị và rất Khách quan, có đủ cả còn kêu ca nỗi gì?
Cứ xem như Đảng Dân chủ,
Đảng Xã hội, do Đảng Cộng Sản chế tạo để làm cảnh mà còn phải tự giải tán thì
những Đảng phái chính trị đối lập (như Tổng bí thư có nhắc đến) chắc cũng nên
biết tự giải tán trước khi thành lập mới là biết đều. Biết điều thì đừng có
xuất hiện, không xuất hiện tức là không có nhu cầu, không có nhu cầu thì không
được phép xuất hiện là đúng chứ gì nữa! Cái tam đoạn luận Cộng Sản nước mình
còn khó cãi hơn cả tam đoạn luận A-ris-tốt!
Một chi tiết nữa trong
chuyện Nội dung Thời đại là cái định hướng Xã hội chủ nghĩa của Việt Nam và mấy
nước Cộng Sản kiên trì. Ta còn nhớ trước đây, khi định nghĩa Thời đại mới là
thời đại chuyển từ chủ nghĩa Tư bản sang chủ nghĩa Xã hội trên phạm vi toàn thế
giới thì có nghĩa là những người Cộng Sản đã coi trái đất, tức ngôi nhà chung,
là của riêng thế giới Cộng Sản, các nước Tư bản chỉ còn là những kẻ tạm trú,
chỉ được gia hạn ở thêm một thời gian nào đó thôi, giai cấp Công nhân đào huyệt
sẵn cho họ rồi (chính với tinh thần làm chủ ấy nên Phi-del Cas-tro đã nói: Mỹ
không thích Cuba dọn đi nơi khác mà ở!.) Nay những nhà lãnh đạo của mấy nước
Cộng Sản sót lại đã có đôi chút khiêm tốn, chỉ kiên trì cái định hướng xã hội
chủ nghĩa trong lãnh thổ của mình, chứ chưa quyết định việc tràn ra trên phạm
vi toàn thế giới!. Được tạm tha, chắc các nước trong khối G7 cũng như Cộng đồng
châu Âu đã có thể tạm yên tâm, tiếp tục lo việc làm ăn để có tiền giúp chúng ta
ra khỏi tình trạng nghèo khổ (200 đôla trên đầu người một năm) để ta còn xây
dựng Chủ nghĩa Xã hội tiên tiến cho họ noi theo... (!)
Thật là một sự phỉ báng
không gì có thể so sánh. Những thế hệ con cháu chúng ta sau này chắc không thể
tưởng tượng rằng ông cha chúng đã có thời dám dũng cảm dùng sự ngu dốt ma quái
của mình để phỉ báng Trí tuệ loài người một cách thản nhiên đến thế!
Khi mọi lý luận cũng như
thực tế đã được phơi bày đến mức này, nếu quả thật cả Dân tộc 70 triệu này vẫn
cứ nhất tề giữ vững cái định hướng Xã hội Chủ nghĩa ấu trĩ do các thế hệ thiệt
thòi trước kia đã chọn (như lời Đảng ta khẳng định) thì hóa ra cả Dân tộc chỉ
là một đàn vịt hay sao?
Coi dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng và văn minh là chủ nghĩa Xã hội thì chỉ chứng tỏ Đảng ta khinh
cái Dân tộc này không còn ai biết gì, vì đó chỉ là câu nói đùa!
Các vị đại biểu quốc hội
nghĩ thế nào thì tôi không rõ, nhưng một người dân thường hôm nay cũng hiểu
được cái chân lý của Thời đại là: nếu không cố giữ cái định hướng Xã hội chủ
nghĩa thì Đảng ta biết làm cách nào để giữ yên vai trò độc tôn của mình?
Người ta nhái lời thơ Cao
Bá Quát nói với Tự Đức:
Khề khà mưu kế đa nhân thức,
Khệnh khạng tương lai bịp Tú tài!
Thử hỏi ngày nay có nhà
khoa học nghiêm túc nào dám đưa Xã hội chủ nghĩa vào Nội dung của thế kỷ 21 hay
của kỷ nguyên Văn minh Tin học hay không?
Vậy thì dù có mỹ miều đến
đâu, cái gọi là Xã hội chủ nghĩa cũng chỉ là một con đường giả định rất lơ mơ.
Tại sao dám huy động tất cả sinh lực của một dân tộc vào cái việc ép dân tộc đó
dấn thân vào một con đường còn rất lơ mơ, đầy bất trắc? Con đường mà chính
người dẫn đường cũng mới chỉ được đọc trong một cuốn tiểu thuyết giả tưởng! Con
đường mà ngay những người đạo gốc đi trước cũng đã phải quay về, với những thân
hình tiều tụy? Con đường mà mới đi một quãng đã thấy lố nhố những khuôn mặt
cường hào mới! Con đường mà mới đi một quãng đã ngót 10 triệu con người đã tàn
phế, tử vong, (người là vốn quý nhất?)!...
Sự phi lý ấy quá hiển
nhiên nên buộc người ta phải nghĩ rằng: người dẫn đường kia không hề ngu dốt,
bởi đấy là một sự ngu dốt không thể có!
Đã không ngu dốt thì chỉ
có thể là ma quái, vì chắc chắn không thể là bình thường! Và cái phép lôgic tự
nhiên buộc người ta phải nghĩ rằng: Cái định hướng làm cho mọi người mất công
bàn cãi kia chỉ là định hướng giả. Con đường thì rất lơ mơ, không có trên bản
đồ, nhưng phải có một cái gì đó không lơ mơ, một cái gì đó rất vật chất mà
người dẫn đang có thật trong bàn tay đang nắm của anh ta, và anh ta cứ giữ dịt
lấy không cho ai động đến! Chỉ có một thứ vật chất sờ sờ như vậy mới có thể làm
cho ông trùm duy vật kia có được nguồn sức mạnh để tiếp tục cái công việc mà
những người không biết cứ tưởng là duy tâm, phi lý! Và nếu cần thì anh ta vui
vẻ nhận ngay cái khuyết điểm duy tâm, duy ý chí để khỏi ai nhắc đến cái ưu điểm
rất duy vật của mình!
Khi tôi bộc lộ suy nghĩ
này với mấy người dân, họ phá lên cười: Khổ quá, các ông khoa học thiếu thực tế
nên mới phải có luận cứ nọ, lôgic kia, lại chỉ tổ để người ta kết tội là làm
yếu sự lãnh đạo. Chứ chúng tôi lăn lộn với thực tế, chúng tôi biết tỏng từ tám
đời rồi! Nhưng chúng tôi thấy cái ông dẫn đường cầm doi kia tớp được cái đùi gà
thì chúng tôi cũng phải lẳng lặng nhặt cho vợ con mình con tép riu, chứ ngu gì
mà chịu chết đói?
Chúng tôi không dám làm yếu
ai cả, chúng tôi chỉ làm cho mình mạnh lên thôi! Nghe họ nói tới vừa phục lại
vừa thương, cách ứng xử Việt Nam mình là vậy.
Những trở ngại trong việc tự nhận ra mình:
So với việc nhận thức Thời
đại thì việc nhận ra mình gặp khó khăn hơn nhiều. Nhận ra chân dung quá khứ của
mình đã khó, nhận ra chân dung của mình hôm nay lại càng khó hơn. (Thật là
ngược đời). Vì mọi cố gắng ngụy tạo đều tập trung ở đây.
Cuộc đấu tranh để tự nhận
thức về mình diễn ra trên ba lĩnh vực:
1. Về quá khứ, cội nguồn:
Lịch sử Việt Nam, Con người Việt Nam có ưu điểm gì, khuyết nhược điểm gì? Tính
cách Con người Việt Nam ra sao? Nên đánh thức nó hay nên ru ngủ nó?
2. Về Cách mạng Việt Nam :
Những biến cố lịch sử của Việt Nam từ đầu thế kỷ 20 đến nay. Những trào lưu,
bản chất, tính đúng sai, sự thành bại, hiệu quả và hệ quả của những trào lưu
ấy, đặc biệt là trào lưu Cộng sản.
3. Về công cuộc đổi mới
đất nước hiện nay: Yêu cầu khách quan có tính Thời đại đổi với cả Dân tộc là
gì? Phương án đổi mới do Đảng khởi xướng thực chất là gì? Hiện trạng, hiện tình
của xã hội Việt Nam hôm nay ra sao? Tiên lượng thế nào?
Ba khâu tự nhận thức ấy là
ba bước liên hoàn, gắn với nhau rất lôgic. Chẳng hạn: Nếu muốn khẳng định sự
lãnh đạo đổi mới như hiện nay là đúng đắn, là làm vẻ vang cho dân tộc, (nên
không ai được chống lại!) thì trước hết phải khẳng định nửa thế kỷ đi theo
Mác-Lê để đấu tranh giai cấp và tiến lên chủ nghĩa Xã hội là đúng đắn, và phải
ca ngợi dân tộc này là tuyệt vời, bởi có tuyệt vời mới biết chọn con đường đúng
đắn ấy và chọn người dẫn đường tuyệt vời ấy. Và như thế thì đương nhiên không
thể lôi những sai lầm Cải cách ruộng đất và Cải tạo tư sản, lôi những vụ án
Nhân văn, vụ Hoàng Minh Chính, thảm trạng thuyền nhân vượt biên... ra mà khảo
sát được! Và cái Dân tộc tuyệt vời này cứ tiếp tục như thế mà đi, đừng có nhìn
trước nhìn sau, đừng nghe ai xúi dục mà cựa quậy làm gì cho rách việc!
Trái lại nếu muốn căn cứ
trên đặc điểm của Thời đại và những quy luật tiến hóa phổ quát, muốn so sánh
Dân tộc ta với các Dân tộc khác về những thành quả đang được hưởng và cái giá
phải trả cho những thành quả ấy, để tìm lời giải tối ưu cho Dân tộc mình thì
khi ấy Dân tộc là trên hết, Mác-Lênin cũng không to, Đảng cũng không to... cứ
cái gì tốt và hợp thời thì giữ, cái gì xấu và lỗi thời thì bỏ. (Trong bức thư
ngỏ của mình một người Cộng sản viết: Đảng là cái gì mà không được chống? là
trên tinh thần Dân tộc ấy). Cái gì cũng phải đem ra khảo sát, cái gì cản trở
Dân tộc đi lên đều phải được phê phán, nợ nần oan khuất đều phải trang trải
phân minh!
Nếu lựa chọn con đường vì
Dân tộc như vậy thì Đảng quy tội là chống Đảng, vậy Đảng là cái gì? Ông Nguyễn
Trung Thành là người biết rõ hơn ai hết rằng những người bị Đảng cầm tù vì tội
xét lại, chống Đảng là không có tội, nên đã yêu cầu minh oan cho họ. Tổng bí
thư Đảng đã đúng đối lập với thái độ thức tỉnh ấy của lương tri, vậy Đảng là
ai?
Những bài lý luận của
chúng tôi đã trình bày phương hướng của một hệ tư duy mới, một phương pháp luận
mới. Trên cơ sở ấy đã thử nhìn lại một cách hệ thống dân tộc mình, xã hội mình
trước đây và hiện nay.
Qua những bài phê phán của
Trung ương Đảng, của Ban Tư tưởng Văn hóa, cũng như của các nhà lý luận Mác-xít
trong nước nói chung, tôi biết mình bị coi là đại biểu của khuynh hướng phủ
định sạch trơn. Nhưng rất tiếc đấy chỉ là những quy kết chính trị, những lập
luận ngụy biện, không có những nội dung khoa học để thảo luận.
II) VƯỢ T QUA NGỤY BIỆN:
A) Nhìn chung tình trạng
ngụy biện:
Quyền và Tiền, hay Bạo lực
và Đô la, là những sức mạnh vật chất của xã hội. Chẳng có nước nào không biết bám vào hai cái đó để sống.
Nhưng phải ở các nước nông nghiệp Châu Á, đặc biệt là trong ý thức hệ Mác-Lê
thì hai sức mạnh ấy mới có thêm một đồng minh thứ ba, để kết lại thành thế chân
vạc giữ cho thành trì bảo thủ bất cả xâm phạm. Đó là NGỤY BIỆN!
Ngụy biện đã có tự nghìn
xưa, nhưng chỉ Cộng sản châu mới nâng được nó lên thành quốc sách, để cùng với
cây gậy và củ cà rốt thành Tam pháp bảo. Thử xem khắp kim cổ đông tây, ở đâu có
một bộ máy ngụy biện hoàn chỉnh, ngang nhiên và đạo đức nhường ấy?
Nền Ngụy biện Việt Nam
được hun đúc từ ba yếu tố:
- Yếu tố thứ nhất là những
lý thuyết của nền Đức trị Phong kiến chuyên chế từ phương Bắc, mang nặng tính
tín điều tôn giáo hơn là tính khoa học khách quan.
- Yếu tố thứ hai là truyền
thống láu vặt của một dân tộc nhược tiểu (so với nước láng giềng khổng lồ) vốn
thông minh nhưng không có độc lập và Dân Chủ, nên không thể kết đọng thành
những hệ tư tưởng chính thống độc lập. Nó là sự cố gắng chắp vá để dung hòa,
hoặc ngược lại thì là sự chống chế, đối phó để tồn tại. Lý sự kiểu Trạng Quỳnh
ấy có tác dụng để phá hơn là để xây.
- Yếu tố thứ ba là lý
thuyết Cách mạng Vô sản, vừa mang tính chất võ đoán của một triết học quyết
định luận, vừa mang tính tùy tiện của thứ lý thuyết chính trị thực dụng. Toàn
bộ cái gọi là Chủ nghĩa Xã hội khoa học chẳng qua là một Đại ngụy biện, nhằm
biện minh cho một ảo ảnh. Học thuyết ấy đi vào xã hội và con người Việt Nam
không qua vọng gác của Trí tuệ.
Truyền thống Ngụy biện
tiềm tàng ấy đặc biệt khởi sắc trong thời kỳ đổi mới để thích ứng với tính chất
phức tạp, và lắt léo của giai đoạn này, nhất là từ sau Đại hội 13 của Đảng Cộng
Sản Trung Quốc và Đại hội 7 của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Đối với người cầm quyền,
Ngụy biện thành vũ khí thứ ba lợi hại, để vừa tránh phải dùng nhiều đến cái
gậy, vừa tiết kiệm được củ cà rốt. Ngụy biện này tận dụng triệt để những thành
quả trong quá khứ của cuộc chiến tranh vệ quốc, tận dụng tâm lý sau chiến tranh
muốn yên thân và khát khao cuộc sống vật chất, và tận dụng thói quen phục tùng
vô điều kiện của dân. Tóm lại là tận dụng tình trạng dân trí thấp để không đổi
mới mà vẫn đổi mới, để nói đổi mới của dân, do dân, vì dân mà thực ra là đổi
mới của mình, do mình, vì mình, để miệng nói định hướng Xã hội chủ nghĩa mà tay
làm định hướng Tư bản chủ nghĩa.
Đối với Cán bộ cấp dưới và
dân chúng, thì Ngụy biện là vũ khí để tự giải phóng mình khỏi sự kiềm hãm của
cơ chế, để có thể cứ vi phạm mọi điều mà không ai bắt tội được. Họ tận dụng triệt
để tính phi lý của ý thức hệ, tính mâu thuẫn và thoái hóa trong hệ thống điều
hành, tính dân chủ giả, pháp trị giả, nói một đằng làm một nẻo, và nhất là tính
nhị nguyên của phương án làm kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ
nghĩa.
Đối với Trí thức, Văn nghệ
sĩ thì Ngụy biện có hai dạng: dạng Ngụy biện giúp cho Đảng và dạng Ngụy biện tự
che cho mình. Những Ngụy biện cho Đảng chính là những luận điểm vẫn công bố
trên sách báo chính thống và các phương tiện truyền thông đại chúng. Những Ngụy
biện này ngày càng xẹp dần đi. Nhưng những Ngụy biện để che cho mình thì ngày
càng phát triển, nhất là khi ngọn lửa đổi mới hồ hởi của Đại hội 6 đã bị cái
gáo nước lạnh ổn định dội cho tắt ngẩm. Đó là cả một hệ thống những não trạng,
tâm trạng, tâm tư, tâm lý... ngày càng sâu rộng, bộc lộ trong những lúc tâm sự,
những chuyện nhàn đàm, những cách ứng xử... mà dưới đây tôi sẽ điểm qua.
B: Điểm qua một số Ngụy
biện:
Như đã nói từ bài Dắt tay
nhau... : nét đặc sắc của cuộc đấu tranh mới trong xã hội là cục diện đấu tranh
giữa Ngụy biện và Chống ngụy biện nên Nội dung Chống Ngụy biện, nhất là những
Ngụy biện chính gắn với lý luận, tôi đã đề cập trong những phần lý luận trước
đây cũng như trên đây. Sau đây chỉ là phần bổ sung cho rõ thêm, chủ yếu về
những ngụy biện bất thành văn nhưng trực tiếp chi phối thái độ ứng xử.
Tôi tạm chia những Ngụy
biện thành 4 cụm, kèm theo lời bản ngắn gọn. Đối với một số ngụy biện quá ngô
nghê, xin chỉ kể ra mà không bàn để tránh làm mất thì giờ của người đọc.
1/ Bảo vệ định hướng XHCN:
1) Mác không sai, vì Mác
vạch ra cái hướng, chứ Mác đã nói cái gì cụ thể đâu? Mình tự làm sai sao lại đổ
cho Mác? Không nên chống một lý tưởng, con người phải có niềm tin chứ?
- Toàn bộ những bài lý
luận của tôi là câu trả lời rằng mọi sai lầm đều bắt đầu nguồn từ phương pháp
luận và định hướng sai của Mác. Việc phải thờ một chủ nghĩa để làm điểm tựa cho
niềm tin là chỉ dấu hiệu về sự thiếu tự tin. Khi con người đủ trình độ để tin
vào mình và nhân loại sinh động quanh mình thì mọi chủ nghĩa giáo điều linh
thiêng tự nhiên sẽ mất tác dụng.
2) Sai lầm thì nhiều,
nhưng sai là do những cá nhân sai chứ Đảng không sai!
- Phải hiểu ngược lại mới
đúng. Tuyệt đại bộ phận những người trước đây vào Đảng Cộng Sản là những người
tốt. Vì con đường đi trái quy luật nên sinh bế tắc và làm thoái hóa con người.
Cứ đem cá nhân ra trị tội thì trị người này người sau lại phạm tội nặng hơn,
mất hết cán bộ cũng không giải quyết được tình hình. Việc sửa con đường, đổi cơ
chế sẽ làm cho những cán bộ đáng lẽ phải đi tù lại có khả năng thành cán bộ
tốt. Thế mới là nhân đạo. Tôi biết rất nhiều Đảng viên tốt, có suy nghĩ hợp với
lương tâm, hợp lòng dân, hợp lẽ phải, nhưng vì phải gò vào kỷ luật Đảng mà
không thể làm theo lương tâm. Thử làm cuộc điều tra sẽ thấy những người Cộng Sản
lão thành đáng quý bỏ sinh hoạt Đảng rất nhiều, vì họ không muốn đứng chung
hàng ngũ với bọn tham nhũng và cơ hội, đi ngược lại lý tưởng của mình.
3) Sao lại nhẫn tâm phủ
định máu xương, phủ định quá khứ, phủ định sạch trơn?
- Không người Việt Nam
biết suy nghĩ nào lại phủ định sạch trơn. Tôi thấy nhiều sĩ quan của chính
quyền Sài Gòn cũ cũng biết đánh giá vừa phải về cụ Hồ, tự hào về Cách mạng
tháng 8 và kháng chiến chống Pháp. Nhưng cuộc chiến tranh chống Mỹ (để bao quát
hơn, nên gọi là cuộc nội chiến Nam Bắc lần thứ hai, lần thứ nhất là Trịnh
Nguyễn phân tranh), cũng như những cuộc thanh trừng mang tính giai cấp và ý
thức hệ thì ngay những người Cộng Sản hiểu biết cũng ngày càng phê phán. Phải
phê phán những đường lối sai lầm ấy chính là vì quý, vì tiếc máu xương, vì trân
trọng sinh mạng con người. Phê phán để không phải hy sinh vô ích nữa. Xã hội
phải chăm sóc những gia đình nạn nhân chiến cuộc là đúng, nhưng đánh giá chiến
cuộc lại là chuyện khác. Không phải đã dùng nhiều máu xương cho một con đường thì
con đường ấy nhất định phải đúng. Không thể vì trót đổ nhiều máu xương nên nay
phải giữ! Vấn đề là con đường nào lợi nhất cho Dân tộc từ nay về sau, muốn vậy
phải nhận thức chính xác xem mình vừa đi trên con đường gì, đang đi trên con
đường gì?
Xin hãy bình tĩnh để tham
khảo ý kiến của ông Lê Xuân Tá, một cán bộ của y ban Khoa học nhà nước những
năm 60:
... Khát vọng của Lê Duẩn
là phải làm một cái gì hơn cả Điện Biên Phủ, để vượt trội cả Hồ Chí Minh lẫn Võ
Nguyên Giáp. Khát vọng đó được Lê Đức Thọ đồng tình Lập trường CHỦ CHIẾN có
nguồn gốc sâu xa như vậy.
... Nếu không phát động
được cuộc chiến tranh ở miền Nam thì cả Lê Duẩn lẫn Lê Đức Thọ đều chưa nắm
được thế thượng phong trên vũ đài chính trị. Tháng 11 năm 1960 Lê Duẩn phát
động phong đồng khởi, đặt cả nước và toàn ban lãnh đạo Đảng ở thế đã rồi. (xem
phần phụ lục, bài Hồi ức về cuộc khủng bố chống chủ nghĩa xét lại ở Việt Nam).
Na-pô-lê-ông ngày trước
cũng quyết định một trận đại chiến với _ chỉ để dọn đường cho vợ đi chơi! Trả
giá cho máu xương ấy, chắc chỉ vài tấm huân chương là đủ.
Còn việc phủ định quá khứ
thì không ai đoạn tuyệt với truyền thống của nhân loại phũ phàng hơn trào lưu
Cộng Sản (xem Đôi điều suy nghĩ của một công dân, mục Nguyên tắc tích lũy, kế
thừa và giao thoa)
4) Chủ nghĩa Tư bản có
sinh thì cũng có diệt chứ, phải có cái thay thế chứ!
5) Quân đội là dứt khoát
Đảng phải nắm, không thì mất nước ngay.
6) được
tình cảm rồi thì gì cũng xong.
7) Dân
mình không pháp trị được. khác châu Âu, không thể tự do cá nhân cực đoan được.
8) Các vị Bôn sê vích Đệ
tam sai, chứ không phải Mác sai! Đệ nhị đúng chứ! hoặc Đệ tứ đúng chứ!
- Dòng Mác-xít này có thể
phê phán dòng Mác-xít kia là không trung thành với Mác. Nhưng tư tưởng Mác-xít
có những khiếm khuyết căn bản từ trong nguyên lý (nhất là tư tưởng Mác ở giai
đoạn sau), nên việc phản bội nó là điều không tránh khỏi, càng trung thành với
những nguyên lý ấy thì càng bị đào thải sớm. Tôi nghĩ Đệ Nhị đỡ cực đoan hơn,
nên phần hợp lý của nó đã được đồng hóa vào trong đường lối của các Đảng của
Bắc Âu, của Pháp... Tôi có hỏi một nhà Đệ tứ : Tại sao các vị Bôn sê vích lại
chống các ông hơn cả kẻ thù? thì được trả lời: Vì chúng tôi chấp nhận Dân chủ
Đa nguyên! Đó là chi tiết đáng chú ý.
9) Ông đừng nhẹ dạ, tưởng
Tư bản là tốt. Đánh bằng quân sự không được thì nó Diễn biến Hòa Bình!
- Diễn biến Hòa Bình theo
nghĩa chân chính của từ ấy là sự vận động lành mạnh của xã hội, hợp với quy
luật tiến hóa. Nó trái với sự bảo thủ, trì trệ, nhưng đồng thời cũng trái với
bạo lực và chiến tranh, trái với những đột biến cách mạng long trời lở đất một
mất một còn. Con người văn minh, có văn hóa bao giờ cũng ủng hộ luật chơi diễn
biến hòa bình, vì không thể khác. Song đó mới là luật chơi, trong đó cả lực
lượng tiến bộ lẫn lạc hậu, chính nghĩa và phi chính nghĩa đều phải chấp nhận,
trong đó mỗi bên đương nhiên có mục tiêu và đấu pháp riêng. Loài người tiến bộ
từng ủng hộ những mục tiêu tốt và lên án những mục tiêu xấu, chứ không thể
chống diễn biến hòa bình. Trừ những tình huống đặc biệt cần đến đột biến và bạo
lực ra, nói chung nhân loại tiến lên bằng diễn biến hòa bình.
Ai cũng biết phong trào
Cộng Sản sành sõi cả về hai mặt đấu tranh cách mạng bạo lực và diễn biến hòa
bình). Vì thế khi Đảng ta nói chống diễn biến hòa bình thì những người hiểu
biết đã không hiểu nổi, nhất là khi miệng ta nói chống diễn biến hòa bình nhưng
tay ta lại tiến hành diễn biến hòa bình rất ráo riết!
Một công cuộc đổi mới lành
mạnh và có văn hóa không có gì khác hơn một công cuộc DIỄN BIẾN H'A BNH! Phải
đẩy mạnh chứ sao lại chống? Phải đẩy mạnh chiều hướng diễn biến tốt để lấn át
chiều hướng diễn biến xấu!
10) Đảng vẫn phải lãnh đạo
thôi, nếu Đa nguyên, các phái hữu cực đoan trở về phục thù là rách việc lắm.
- Thế là chúng ta, người
chuyên diễn biến hòa bình và bạo loạn lật đổ, nay lại vừa sợ diễn biến hòa bình
vừa sợ bạo loạn lật đổ!
11) Các ông ấy không dốt
đâu, cai quản cả một xã hội như thế này đâu phải chuyện chơi, thằng Pháp, thằng
Mỹ cũng phải chịu thua cả!
12) Cứ giữ chủ nghĩa Cộng
Sản như một cái đích để mà ước vọng thì có sao đâu mà phải bỏ?
- Một cái đích rất đẹp
nhưng không khả thi thì chỉ có tác dụng tốt nếu để nó trong phạm vi tôn giáo,
trong chùa hoặc trong nhà thờ... Đưa nó vào đời sống chính trị, xã hội thì nó
thành cái để người ta nhân danh mà quyến rũ hoặc hù dọa mọi người, thành bình
phong cho cái c, gây nhiễu đối với hệ thống giá trị hiện thực, nên rất có hại.
Mọi chủ nghĩa không tưởng đều rất có hại, chính Mác, Ăng-ghen thấy rất rõ điều
này.
2/ Bảo vệ phương án đổi mới hiện nay:
13) Mọi thứ đã thay đổi
rất nhiều rồi, anh cứ nghĩ Mác như Mác ngày xưa, Đảng như Đảng ngày xưa nên anh
mới nhắm mắt phê phán! Chính anh lạc hậu, lại phê người ta lạc hậu!
- Chúng tôi không lo xã
hội không thay đổi mà lo vì nó quá thay đổi. Thay đổi là quan trọng, nhưng thay
đổi theo hướng nào mới là điều quan trọng hơn.
Hiện nay có ba xu hướng
phê phán:
Thứ nhất, coi Đảng như
người Cộng Sản quá bảo thủ, cứ khư khư giữ giáo điều cũ, phải đấu tranh để Đảng
đổi mới, tức là cập nhật hóa cho Mác-lênin không thì lạc hậu. Tình trạng lạc
hậu này chỉ còn đúng với một số cán bộ, Đảng viên cấp dưới.
Thứ hai, coi Đảng hiện nay
vẫn là Cộng Sản nhưng bị tha hóa, làm sai chủ nghĩa, vi phạm đạo đức, vì vậy
phải đấu tranh để trở về cái gốc của Mác, của Hồ Chí Minh. Tình trạng này đúng
với nhiều cán bộ, Đảng viên cấp trung gian.
Thứ ba, coi Đảng hiện nay
chỉ còn mang cái vỏ Cộng Sản vì quá tinh khôn, biết Mác-Lê không còn thích hợp
với thế giới Văn minh Tin học, nhưng cứ dùng nó như một phương tiện để giữ yên
dân chúng, giữ yên địa vị lãnh đạo của mình và tạo điều kiện đưa phe cánh của
mình chiếm lĩnh vị trí béo bở trong xã hội Tư bản tương lai. Phải đấu tranh để
công khai hóa mọi điều, chấm dứt tình trạng nói một đường làm một nẻo, chấm dứt
việc dùng Mác-Lê làm bình phong. Tình trạng thứ ba này đúng với nhiều cán bộ,
Đảng viên cấp cao, đang quyết định toàn xã hội.
Tình trạng này nguy hiểm
hơn nhiều, bởi vậy về tư tưởng, sự trung thành thật sự với Mác-Lê ảo tưởng
không đáng sợ bằng sự trung thành giả. Đừng mải phê phán sự mê tín coi chủ
nghĩa là mục đích mà quên nguy cơ chính là sự quá ư tỉnh táo, đang dùng chủ
nghĩa làm phương tiện, như không phải phương tiện cho Dân tộc mà là phương tiện
cho riêng mình.
14) Sự nghiệp đổi mới đang
thu được những thắng lợi chưa từng có, nếu có khó khăn thì đó chỉ là những khó
khăn đương nhiên của sự phát triển, tạo sao bỗng dưng các anh lại đề cập một
cuộc kháng chiến mới là nghĩa làm sao? Hay các anh muốn hủy những thành quả mà
chúng tôi đang được hưởng?
- Có lẽ đây là Ngụy biện
có tính phổ cập hơn cả. Nếu cuộc đổi mới tốt đẹp như thế thật thì những người
đề cập đến cuộc kháng chiến mới kia nếu không phải là những người mắc bệnh điên
thì dứt khoát phải là phản động(!). Chỉ có động cơ bất mãn hoặc bị gián điệp
nước ngoài mua chuộc thì mới sa sút phẩm chất cách mạng đến thế được!
Một kẻ như vậy, đầu tiên
phải kể đến ông Nguyễn Khắc Viện, tác giả bài Bước vào cuộc kháng chiến mới
(xem phần phụ lục). Người trí thức Mác-xít đã bỏ nước Pháp theo cụ Hồ về nước
kháng chiến và xây dựng chủ nghĩa Cộng Sản ấy, hôm nay viết: Tư bản, tôi hoàn
toàn đồng ý (!) Mở đường cho Tư bản trong nước phát triển, mở cửa cho Tư bản
ngoài vào, đồng ý, Cái đầu tầu Tư bản sẽ kéo nước ta lên. Đối chiếu với lý
tưởng và hành động của ông cũng như của Đảng trước đây thì đấy là sự đầu hàng
rành rành rồi còn cãi gì nữa, nhưng Đảng đã làm thế thì ông đành phải theo (đây
là sự theo Đảng lần thứ hai của ông).
Chắc hẳn ông đã theo Đảng
đầu hàng Tư bản một cách vui vẻ nếu được đầu hàng Tư bản văn minh. Nhưng đằng
này lại là Tư bản man rợ nên ông theo không nổi! Cái Tư bản man rợ ấy sẽ bóc
lột ai cúi đầu cho họ bóc lột, đàn áp giết hại ai cản trở việc làm ăn của họ,
sẽ mua chuộc tham quan ô lại, lừa bịp kẻ ngu dại. Bởi vậy ông mới phải kêu gọi
mọi người Hãy cùng nhau bước vào cuộc kháng chiến mới, nay phải dựng nên một
Mặt trận dân tộc, nhân dân, quốc tế rộng hơn, tiến hành một cuộc kháng chiến
mới lâu dài hơn, đa dạng hơn. Mới mong hạn chế được tham nhũng, bảo vệ được môi
trường, giảm nhẹ bất công xã hội, phân hóa giầu nghèo, giữ gìn được thuần phong
mỹ tục, phát huy tình người, tôn trọng quyền phụ nữ, trẻ em, các nhóm thiểu
số...
Xem như vậy thì ông Viện
không thể bị qui thành điên hay bị bọn phản động mua chuộc được. Trái lại ông
cho mọi người thấy cái mặt trái của những thắng lợi trong sự nghiệp đổi mới
hiện nay. Bài viết ấy của ông Nguyễn Khắc Viện chỉ là một ví dụ, những điều ông
nêu ra lúc ấy (tháng 6/93) chưa thấm vào đâu so với thực tiễn, nhất là thực
tiễn năm 1994-1995.
Chúng ta đã dùng một bộ
máy tuyên truyền khổng lồ để làm cái việc tô đậm một nửa của sự thật. Một nửa
cái bánh mì vẫn là bánh mì... , còn một nửa của sự thật thì chỉ là sự dối trá
khôn ngoan (phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa chính là một trong
những ngón võ khôn ngoan ấy). Muốn hiểu đúng sự thật không thể không tiếp tục phân
tích cái nửa sự thật đã được phơi bày, đồng thời phải đem đến cho mọi người
những thông tin về cái nửa sự thật còn bị bưng bít.
Ta nói ta muốn cho Dân làm
chủ nhưng ta chỉ cho dân được nhìn cái một nửa sự thật do ta định hướng thì Dân
làm chủ cái gì? Và cái công việc thông tin khách quan này không bao giờ có thể
thực hiện được nếu không có ít nhất một quyền Tự Do là TỰ DO BÁO CHÍ.
15) Có kinh tế thị trường
rồi, quy luật tự nó sẽ đi, đừng nóng vội!
16) Các cụ còn sống bao
lâu nữa mà lo, con cháu các cụ thành tư bản cả, đến thời họ sẽ làm khác. Cứ để
cho thế hệ các Cụ được mồ yên mã đẹp cái đã!
17) Phải từ từ, nóng vội
sửa ngay như Liên Xô, Nam Tư để đánh nhau thì khổ lắm!
- Ba Ngụy biện này là sự
ngộ nhận về quy luật, không hiểu yếu tố chủ quan và yếu tố thời gian trong quy
luật. Trong quy luật xã hội thì con người là một yếu tố, lại là yếu tố động.
Không chủ động tạo ra cái Chân, cái Thiện, cái Mỹ lại chờ nó tự đến thì thật là
ảo tưởng, hoặc chỉ là sự lẩn trốn trách nhiệm. Các cụ ngày xưa rất tin ở mệnh
trời mà còn biết Tận nhân lực, trí thiên mệnh (có cố hết sức mình thì mới biết
mệnh trời ở đâu)!.
Quy luật là những định
hướng lớn của cái chung, trong đó vẫn chứa những số phận rất khác nhau. Trong
quy luật lớn vẫn dung nạp nhiều quy luật nhỏ. Ví dụ làm kinh tế thị trường là
đúng quy luật, nhưng trong đó quy luật vẫn dành quyền lựa chọn cho con người
muốn thành người giàu sang hay thành kẻ bần cùng! Cứ chờ quy luật thì có khi xã
hội đi rất đúng quy luật, nhưng cá nhân mình thì thân tàn ma dại! Vì có khoảng
trống đó nên người cầm quyền mới có khả năng vẫn đưa xã hội trở về đúng con
đường của quy luật nhưng chiếm hết chỗ béo bổ nhất cho mình, anh nào ngu ngốc
thì thiệt thân. Xin đừng quá lo cho quy luật không được thực hiện mà hãy biết
sợ rằng quy luật sẽ được thực hiện, nhưng với sự lợi dụng. Lợi dụng quy luật
cũng chính là một quy luật, một quy luật phổ biến nhất trong đấu tranh sinh
tồn, chứ không có gì lạ.
Nghĩ về quy luật, người ta
thường chỉ quan tâm đến kết quả cuối cùng (cứu cánh), mà quên rằng linh hồn của
một quy luật không nằm ở cứu cánh ấy mà nằm trong yếu tố thời gian, cũng tức là
tốc độ của diễn biến. Cùng một kết quả nhưng đến sớm hay đến muộn có thể lộn
ngược tình thế. Đổi mới lương thiện hay không lương thiện cũng chỉ lừa nhau ở
chỗ tốc độ, ở thời gian thôi. Cứ lấy một ví dụ thô thiển cho dễ hiểu: Khi ta
phát hiện một ổ buôn lậu đang chia nhau tiền, đang xóa tang chứng. Về nguyên
tắc ai cũng tán thành việc khám xét, nhưng người này bảo phải ập vào khám xét
ngay bây giờ, người khác lại bảo không nên nóng vội phải biết chờ đợi, chờ đến
sáng mai! Sự chênh lệch vài giờ đồng hồ có khi cũng đủ để phân định ai là người
chính trực, hay ai là kẻ lưu manh. Người anh hùng và kẻ cơ hội cuối cùng cũng
sẽ nói những điều giống nhau, nhưng người này nói lẽ phải lúc đang bị cấm, kẻ
kia nói lẽ phải khi thấy ông chủ đã bật đèn xanh! Thậm chí đến lúc ông chủ sẽ
thuê người chửi mình, hưởng lương rất hậu nhưng phải chửi cho đúng kiểu.
18) Trước đây mình cứ đối
lập Xã hội chủ nghĩa với Tư bản, nay mình thấy tất cả những cái cơ bản cũng vẫn
giống nhau thì mình điều chỉnh lại cho hợp lý, có gì quan trọng đâu? Mỹ, Nhật
thế cũng là Xã hội chủ nghĩa, mình có kiểu Xã hội chủ nghĩa của mình!
- Ngụy biện này thoạt tiên
có vẻ như thuyết hội tụ mà những người Cộng Sản lúc còn thịnh vượng thường lên
án (nhưng nay lại bám lấy nó để hợp lý hóa sự tồn tại của mình). Ngay một số
nhà lý luận rất đổi mới cũng tìm đến sự hội tụ ấy: Văn minh Tin học làm cho cả
chủ nghĩa Tư bản lẫn chủ nghĩa Xã hội đều phải điều chỉnh, cuối cùng hai đối
thủ vẫn qui tụ tại một điểm, chẳng có ai thắng ai.
Nói vậy không đúng Chủ
nghĩa Tư bản và Chủ nghĩa Xã hội không bao giờ là địch thủ của nhau cả. (Có thể
sự đối địch giữa một phe do Liên Xô đứng đầu với một phe do Hoa Kỳ đứng đầu đã
gây ra sự ngộ nhận này).
Cách gọi tên không đúng
khiến lâu ngày người ta lầm lẫn. Tuy cùng được gọi là chủ nghĩa nhưng đây không
phải là hai khái niệm tương ứng trên cùng một bình diện.
Chủ nghĩa xã hội là sự
triển khai một ý thức hệ, như một công trình xây dựng theo một thiết kế có tác
giả hẳn hoi, tức là một công trình nhân tạo được định hình trước khi xây dựng.
Còn cái gọi là chủ nghĩa Tư bản thì cũng như chủ nghĩa Phong kiến... là những
sản phẩm tự nhiên của xã hội loài người, không ai định hình nó trước, không có
tác giả. Đó là dòng chảy theo quy luật, đến đó người ta nghĩ như thế và làm như
thế, những nhà tư tưởng lúc ấy có thể suy nghĩ những vấn đề mà thực tiễn lúc ấy
đặt ra, chứ không ai dám định hình một Thời đại chưa có, không ai dám ra một
nghị quyết về nội dung của Thời đại rồi lùa thế giới vào cái khuôn ấy như các
nhà Cách mạng Xã hội chủ nghĩa đã làm.
Có thể Liên Xô và Mỹ đã
thách thức nhau, Mỹ và Việt Nam đã thách thức nhau..., những người Cộng Sản đã
thách thức quy luật. Nhưng quy luật và cái thế giới bình thường sống theo quy
luật thì không thách thức ai bao giờ!
Cái gọi là Chủ nghĩa Tư
bản chỉ là sản phẩm tự nhiên của quy luật, nên nó cứ nới rộng theo quy luật,
quy luật bắt phải thành cái gì thì nó thành cái đó, nó chỉ thắng quá khứ của nó
thôi.
Còn Chủ nghĩa Xã hội là
một sản phẩm nhân tạo, chống quy luật nên bị quy luật đào thải. Nó thua rõ
ràng, nhưng là thua quy luật, bị quy luật dạy cho những bài học, nay phải đơn
phương trở về với quy luật, chứ không thể nói nó với quy luật hội tụ vào nhau
được, chẳng có ai hội tụ với nó cả!.
Nhưng mặt khác, ý nghĩa
của Ngụy biện này là muốn xúy xóa những lý luận sai lầm mà nay người Mác-xít
không muốn ai nhớ tới nữa. Giống như anh nông dân lúc đầu tưởng thửa ruộng của
mình tốt hơn nên cố đắp bờ cho cao để ngăn cho rành mạch, đến khi thấy thửa
ruộng bên cạnh tốt hơn bèn phá bờ đi, cười hề hề rằng tôi với bên ấy hai nhà
cũng như một thôi mà!
Cái Ngụy biện muốn đồng
nhất dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh với định hướng xã hội chủ
nghĩa, thì cũng là cách xúy xóa như thế chứ gì nữa.
19) Mỹ nó chẳng để cho các
cụ như thế mãi đâu, đừng lo!
Phần 4(tiếp)
Đổi mới Là tự vượt qua
mình
20) Hai triệu kiều bào
giàu có sẽ đi về luôn, tình hình tự nhiên phải đổi.
- Đây là hai Ngụy biện
khác nhau, chỉ chung nhau cái tinh thần lạc quan tếu, cho rằng khi con tàu đã
được đặt vào đường rầy thì cứ yên tâm ngồi hút thuốc, sớm muộn gì cũng tới
đích!
Riêng Mỹ thì từ ngữ này
mang ý nghĩa rất phức tạp trong cuộc đổi mới của Việt Nam.
Thứ nhất, Mỹ là kẻ đứng
đầu trong danh sách kẻ thù của ý thức hệ Vô sản.
Thứ hai, Mỹ là nước đứng
đầu trong các nước văn minh mà một nước hậu tiến như Việt Nam phải dựa vào để
phát triển đất nước mình.
Thứ ba, Mỹ là Vị bố già số
1 mà tất cả các thế lực chính trị và kinh tế cầu mong được hưởng sự ưu ái, để
có thể cạnh tranh với nhau trong thị trường và chính trường Việt Nam.
Lịch sử Việt Nam thế kỷ 20
là một thế kỷ sàng lọc, chọn một cường quốc làm chỗ dựa: Phan Bội Châu chọn
Nhật Bản, Phan Chu Trinh chọn Pháp, Ngô Đình Diệm chọn Mỹ, Hồ Chí Minh chọn
Liên Xô. (Những ý đồ chọn Trung Quốc sau nhiều phen thăng trầm vẫn chưa thể
chính thức tham dự vào cuộc sàng lọc này vì có vẻ khó được Dân tộc chấp nhận.
Người Việt và người Hoa chung sống với nhau rất tình nghĩa thì đấy lại là
chuyện khác.).
Sự tranh chấp ác liệt hơn
cả là giữa con đường chọn Mỹ và con đường chọn Liên Xô. Con đường chọn Liên Xô
thắng trong hiệp đầu, nhưng rồi Liên Xô đổ, con đường cũng đổ theo, đấu thủ này
bỏ cuộc. Việc những người Cộng Sản vốn dẫn đầu trên con đường đánh Mỹ để chọn
Liên Xô, nay sẽ lại tranh thủ thời gian, ngoặt ngay sang con đường chọn Mỹ để
lại tiếp tục đi đầu, chỉ là cái lôgic tất yếu. Nhưng bước ngoặt này làm sao
thực hiện được, khi trong danh sách kẻ thù của ý thức hệ công khai Mỹ vẫn ở
ngôi sao số 1? Thế thì: trong khi chờ để có một nước cờ công khai chuyển thế,
buộc phải bắt đầu bằng những đi đêm. Cái lôgic tất yếu này, ngồi trong xó bếp
cũng có thể suy ra, chưa cần đến những thông tin về vụ đi đêm này, việc móc
ngoặc nọ mà Đảng ta không thể dấu được.
Bài ca đạo đức chỉ là việc
giao cho mấy anh tép riu, cò mồi, đứng giữ trật tự ở vòng ngoài.
Nên hy vọng ở Mỹ hay nên
đề phòng? Việc lập quan hệ toàn diện với Mỹ là tốt hay xấu? Cả hai khả năng ấy
đều thường trực! Vì Mỹ vẫn là Mỹ hai mặt. Vừa là anh nhà buôn khổng lồ, sẵn
sàng bán người khác để mua quyền lợi cho nước mình, vừa là sứ giả cứu tinh cho
nhân loại.
Đối với Việt Nam, Mỹ sẽ là
sứ giả của Dân chủ, Nhân quyền hay chỉ là anh lái buôn, điều đó do nội tình của
Việt Nam quyết định. Nhân dân Việt Nam xứng đáng ở tầm nào, Mỹ sẽ chơi ở tầm
đó. Nếu Việt Nam tự khẳng định mình là một dân tộc có nhân phẩm, đang đấu tranh
đòi người cầm quyền nước mình phải hòa nhập vào thế giới văn minh bằng con
đường quang minh chính đại, thì Mỹ sẽ quyết đóng trọn vai người anh hùng nghĩa
hiệp. Nếu nhân dân Việt Nam tự bộc lộ mình là đàn vịt trong trại thì Mỹ chỉ làm
ăn với ông chủ trại thôi! (nội tình trong anh thế nào thì cha con nhà anh tự xử
với nhau, cứ có lợi nhuận cho tôi bỏ túi là được). Trong tình thế ấy, anh lái
buôn và người chủ trại tuy là hai đối thủ mặc cả với nhau nhưng đồng lõa với
nhau trong việc kiếm tìm lợi nhuận trên lưng đàn vịt. Nếu cả anh lái buôn lẫn
người chủ trại đều đại thắng lợi thì đàn vịt hãy liệu chừng, chứ đừng thấy
người khách vứt cho nắm thóc đã vội nhao nhao, đạp lên nhau mà ăn. Người dân
Việt xin đừng quá lo cho nước mình không có Đảng đối lập mà hãy biết sợ rằng
đến một lúc Đảng đối lập sẽ ra đời, nhưng chẳng có cái nào của mình!
Hai triệu người Việt ở
nước ngoài là một nhân tố có vai trò đặc biệt trong sự nghiệp đổi mới đất nước.
Lịch sử hình thành cộng đồng người Việt hải ngoại này là một quá trình sàng
lọc, khiến nó có những ưu điểm mà không một quốc gia tự nhiên nào có được. Sàng
lọc về trình độ người ra đi và sàng lọc về trình độ của quốc gia mà người ấy
đến sinh sống. Về nhiều mặt, nếu lấy trình độ trung bình trong nước làm chuẩn
thì những người Việt ra đi nói chung có trình độ cao hơn, trong đó không ít
người tài giỏi và giữ bền tấm lòng đối với đất nước, lại được sống trong những
nước tiên tiến nhất, có văn hóa nhất. Tuy bị hạn chế bởi nhược điểm phân tán,
phân ly, nhưng cái tổng lực khổng lồ ấy nhất định sẽ có những đóng góp đặc biệt
cả về xây dựng kinh tế, lẫn xây dựng Dân Chủ.
Việc đánh giá đúng vai trò
rất cao của các nước tiên tiến và của Việt kiều không được làm mờ đi cái nguyên
lý biện chứng: cái bên trong là quyết định, cái bên ngoài chỉ có tác dụng thông
qua cái bên trong.
Từ thái cực bài ngoại,
mang nặng đầu óc thù địch, nhiều nhà lý luận và chính trị Mác-xít bây giờ lại
nhảy qua thái cực tìm sự đồng điệu ở bên ngoài Dân tộc, ở phía thù địch cũ. Từ
công thức chống Tư bản, chống Đế quốc Mỹ và tay sai lại nhảy sang cái mốt
(mode) lấy quan hệ và lời khen của Tư bản, Đế quốc và tay sai làm chuẩn để
chứng minh là phương án đổi mới của mình là đúng, lấy đó làm điều hãnh diện hả
hê, để khước từ và trù dập những ý kiến khác phát xuất từ trong lòng mình, từ
trong nhân dân, cán bộ, Đảng viên, thậm chí trong nội bộ ban lãnh đạo của mình.
Cái đó là gì, nếu không phải là sự tự phá sản về lý luận, là tự bộc lộ cái não
trạng duy lợi và thực dụng?
Chưa thể quá tin vào một
thế giới lý tưởng mà quên rằng sự công bằng, Dân Chủ là vấn đề nội bộ của mình.
Giả sử có một chính sách mà tất cả các nhà buôn và nhà chính trị toàn thế giới
đều ca tụng thì cũng chắc gì đã đồng nghĩa với hạnh phúc của người dân!
3/ Ngụy Biện Chí phèo :
21) Nhà của anh, anh đang
toàn quyền, nay có thằng ở ngoài nó đòi chia nhà của anh, anh có chịu được
không?
22) Chủ nghĩa Xã hội thì
là cái vớ vẩn rồi, phải bỏ thôi. Nhưng người chiến thắng phải được hưởng chiến
lợi phẩm cũng là lẽ công bằng.
23) Nói lý thuyết thì nói
thế thôi, giai cấp thống trị nào chẳng có quyền lợi riêng, Đảng mình cũng là
người chứ đâu là thánh mà không cần quyền lợi?
24) Lúc Đảng lãnh đạo gian
khổ sao không Đảng nào vào đấy chia sẻ, nay lại đòi chia sẻ?
25) Thế giới đâu cũng thế
cả thôi! Ông tưởng ở Mỹ có Dân Chủ thật hả? Tay Trần Văn Anh hắn nói đúng đấy,
Cộng Sản hay Thiên chúa đều chẳng ra gì, nhưng trong hai cái xấu thì phải chọn
cái Cộng Sản, ít xấu hơn!
26) Các anh đừng có ảo
tưởng về Dân Chủ mà làm bậy, chống chế độ thì ở Mỹ cũng bị đi tù!
27) Quy luật phải phù hợp
với tình hình thực tế, trình độ dân mình thế thì Đảng cai trị thế là đúng quy
luật. Một nhúm trí thức, văn nghệ sĩ không thể tiêu biểu cho dân được.
28) Nói Đa nguyên là phải
dựa trên thực tế, thực tế ta làm gì có lực lượng nào ra hồn? Đảng cứ trưng cầu
dân ý thật thì các anh Đa nguyên cũng thua chỏng gọng chứ đừng tưởng bở!
29) Dân mình không cần tự
chủ, cứ quân chủ là thích hợp. Cụ Hồ sai lầm là không lên ngôi vua.
30) Đa số dân mình còn
đang cần ăn no mặc ấm là đủ rồi, họ biết dùng Dân Chủ làm gì đâu, đưa Dân Chủ
vào sớm chỉ tổ họ làm bậy.
31) Nay hết bao cấp rồi,
phải có tiền, thật nhiều tiền, nếu không con cháu mình làm sao có thể học hành
cho thành tài, sao có thể cạnh tranh được! Phải lao vào thị trường thôi, phải
chơi với bọn Tư bản thôi, nếu phải leo lên đầu thằng khác thì cũng phải leo
thôi! Xã hội đi vào
quỹ đạo ấy là đúng rồi!
Đừng bàn lùi nữa, không được đâu!
- Tất cả những Ngụy biện
này là tự xé toạc tấm màn đạo đức giả, để chơi bài ngửa, nói toẹt ra. Rất nhiều
yếu tố trong đó là sự thật, thậm chí có phần rất đúng, nhưng là thứ sự thật
trần truồng, phiến diện, vô cảm của những kẻ vì bị dồn đến chân tường nên buộc
phải trút bỏ tất cả những nhãn hiệu đẹp đẽ mà mình vẫn nhân danh, để lộ nguyên
hình duy lợi, thực dụng, vô văn hóa, vô lý tưởng của một chủ nghĩa đấu tranh
sinh tồn ở cấp độ bản năng.
Dư luận chắc không thể
quên tấn bi hài kịch về bức thư gửi Bùi Tín của một kẻ chống Cộng ở Mỹ tên là
Trần Văn Anh (thật hay giả), nhưng lại do các tổ chức Đảng của ta phân phát, và
Tạp chí Cộng Sản của Đảng ta giới thiệu. Kẻ chống Cộng ấy muốn nhắn nhủ điều
này: Dân tộc Việt Nam chỉ có 2 con đường theo Cộng Sản hoặc theo Công giáo, cả
hai đều tồi tệ, nhưng trong hai cái tồi tệ thì phải chọn cái ít tồi tệ hơn, đó
là Cộng Sản.
Việc nói cả hai đều tốt
hay đều tồi tệ là quyền nhận định của mỗi người, điều ấy chưa quan trọng. Điều
quan trọng là khẳng định chỉ có khả năng chọn trong hai cái xấu, không có con
đường trong sáng nào khác. Chúng ta cũng đã thường được nghe giải thích: Đừng
kêu ca làm gì, trên đời đã ở đâu có Dân Chủ thật sự đâu mà đòi!
Chúng ta biết rằng con
đường xây dựng Dân chủ, Công bằng là con đường vô tận thật, nhưng trên con
đường ấy loài người đã đi được những đoạn dài, rất dài và rất đáng nâng niu gìn
giữ. Nhân loại phát triển không đều, trình độ Dân Chủ của các nước chênh nhau
cũng xa lắm, người đi sau phải biết trân trọng và noi gương người đi trước, đấy
là cách nhìn nhân bản mà con người phải biết dạy cho nhau. Nếu coi ai cũng như
ai, chưa đâu có văn minh đáng cho mình học, thì sẽ xóa nhòa hết mọi ranh giới;
như thế địa cầu sẽ tối xầm lại, và cái ác, cái lạc hậu sẽ không được nhận diện
để cô lập và canh chừng, cái dã man sẽ ngang nhiên giáp mặt với mọi người và
thế giới sẽ kinh khủng không lường được! Phải lên án không thương tiếc cái Ngụy
biện vừa tuyệt vọng vừa dã thú này!
Điều làm mọi người day dứt
là chính Ngụy biện này lại ở trong miệng, trong tai, trong tay những người nhân
danh Đạo đức, từ xưa đến nay vẫn tuyên truyền bằng Đạo đức.
Phải dùng đến Ngụy biện
này và tin vào hiệu quả của nó, chứng tỏ lòng người đi tuyên truyền không còn
tin gì ở con bài Đạo đức, trái lại tin rằng cái chất phi nhân chứa trong lập luận
kia sẽ vào được lòng người. (!)
Những Ngụy biện khác thuộc
loại này, thiết tưởng chẳng đáng để phân tích gì thêm. Xin nhường diễn đàn cho
một gã chuyên đánh vợ.
Gã vũ phu đánh vợ, hàng
xóm sang can, gã bảo: Ngày trước, khi tôi phải đi tìm hiểu, cưới xin, lo
toan... bao nhiêu vất vả, tốn kém thì lúc ấy sao không thấy mặt các anh đâu?
Mất tiền mua mâm, tôi phải đâm cho thủng! Nữ quyền gì cũng phải nhập gia tùy
tục. Nhà này tôi là chủ, đặc điểm nhà tôi không có bình quyền như nhà các anh
được! Vâng, tôi phong kiến, nhưng vợ tôi nó không có nhu cầu đổi mới thì việc
gì đến các anh? Cái gậy này của tôi cũng là của vợ, do vợ và vì vợ đấy! Các ông
mượn cớ bênh vực Nữ quyền để can thiệp vào gia đình tôi là không được! Cứ để
yên rồi tôi sẽ cho nó được bình quyền, nhưng bao giờ cho được thì tôi sẽ cho,
chứ cấm không được đòi! Gia đình tôi lại không Dân Chủ gấp triệu lần gia đình
các anh ấy chứ, lại đòi giáo dục tôi à?
Nghe nói ngày xưa gã ấy là
du kích nên không ai dám đánh nổi cái lý thuyết Dân Chủ của gã. Chính quyền ta
đã mấy lần định bắt gã đi học tập cho gã sợ mà chừa đi, nhưng chị vợ ốm nhom cứ
lăn xả vào, mếu máo xin cho gã, nên đành chịu.
4/ Cao đạo, lẩn tránh:
32) Chính trị là bẩn thỉu,
dính đến làm gì? Ông cứ lo viết văn, lo làm khoa học, làm nghệ thuật có phải
vừa thanh cao lại vừa an toàn, vừa bổ ích không?
33) Sôi sục bao năm nay
mới biết là vô nghĩa, tôi chán hết mọi thứ rồi, nay chỉ muốn yên thôi. Tôi lo
kiếm ăn, còn thì giờ thì chơi cây cảnh, khỏe người mà lại có tiền!
34) Ông Mác cũng như ông Giê-su,
ông Thích ca, muốn cho đời tốt thôi, chẳng ông nào sai cả! Sai là do những kẻ
lợi dụng các ông ấy, kẻ lợi dụng ấy thời nào chẳng có?
35) Giải pháp gì cũng vô
ích, vì con người tham, sân, si mà ra cả. Cái gốc là phải trở về cái gốc thiện
của Con người! Bây giờ tôi đang nghiên cứu Kinh Dịch! Phải đọc Phật giáo ông ạ!
Đấu tranh giai cấp đã là sai rồi, nay lại đấu tranh chống nó thì lại sai tiếp.
Vấn đề là Thiện và c thôi. Ông nên đi vào Thiền, Yoga, khí công, nhân điện...
là thấy thanh thản ngay!
- Những lời khuyến thiện
đầy tính chất tu hành, đạo sĩ này hầu hết là từ những Đảng viên Cộng Sản trí
thức, sĩ quan cựu chiến binh cách mạng, những nhà khoa học, nhà văn nhà báo dở
dang, những thành viên tích cực của các phong trào đấu tranh chống Mỹ Ngụy trước
đây..., nghĩa là từ những người trước đây vốn sôi sục lý tưởng, hăm hở nhập
thế. Điều ấy thì không lạ. Vì chính những người quá yêu đương say đắm thì khi
thất tình mới quyết tâm cắt tóc đi tu. Đạo duy vật Mác-xít một thời ngự trị cả
phần hồn phần xác người ta, bây giờ Đạo ấy vô hồn, để lại cho xã hội một khoảng
trống. Điều ấy cũng dễ hiểu.
Điều kỳ lạ là sự tài tình
của người sử dụng những trào lưu ấy. Khi xưa anh hiếu động là trúng ý của tôi.
Bây giờ anh bất động, lại càng trúng ý của tôi. Cái con người tâm linh của anh
chạy ngược chạy xuôi thế nào cũng thuộc về tôi cả! Xưa nay đã tôn giáo nào làm
được điều ấy?
36) Phân tích, đấu tranh
thì nghe cũng phải đấy, nhưng không thay đổi được gì đâu, cái c mạnh lắm, lì
như bê tông, làm gì được! Thôi thì Tam thập lục kế, tẩu vi thượng sách!
- Thái độ bi quan này là
do chỉ nhìn thấy những biểu hiện bên ngoài. Thử hỏi cái mà anh cho là vững mạnh
vô địch kia là cái gì? Chủ nghĩa Mác Lênin chăng? Tư tưởng Hồ Chí Minh chăng?
Xin thưa những bảo vật thiêng liêng kia chỉ là cái vỏ bày triển lãm thôi, ruột
gan bên trong đã đánh tráo từ lâu rồi.
Một khối bê tông mà chất
xi măng gắn kết đã mủn ra thì những thanh sắt, cục đá bên trong dù có giữ
nguyên độ cứng dắn cũng chỉ còn là những thanh sắt, cục đá, khiêng đi đâu chẳng
được. Huống chi thanh sắt, cục đá ở đây lại là những vật liệu rất mẫn cảm với
lợi quyền, trong bóng tối cứ gặp đô-la là rã ra từng mảng!
Nhưng không phải ai cũng
bị lợi quyền làm cho hủ hóa. Những người tử tế thì mẫn cảm với Trí tuệ và Lương
tâm. Trí tuệ và Lương tâm bao giờ cũng thuộc về Dân tộc và Thời đại mà những
đại diện của nó cứ xuất hiện ngày càng nhiều.
Những người Cộng Sản lão
thành, nhất là những người xuất thân trí thức, mấy chục năm trước tuy hát khúc
lợi quyền nhưng hồn đâu có ở chỗ lợi quyền mà quyện theo hồn sông núi, nay đã
có đủ độ lùi để nhìn rõ những vết chân mình đã qua, lẳng lặng bỏ sinh hoạt
Đảng.
Rất nhiều Đảng viên, trong
đó có nhiều cán bộ Đảng cao cấp, bằng vai phải lứa (hoặc đàn anh) của những y
viên Bộ chính trị đương nhiệm đã công khai phê phán chính bộ phận tối cao của
Đảng, đã phê phán chính Mác và Lênin, phê phán từ đường lối chiến lược của Đảng
đến những ngụy án và ghi án mà Đảng cố tình bưng bít. Những tầng hàng rào kẽm
gai bảo vệ bóng ma chủ nghĩa cứ lần lượt bị phá, ngày càng tiếp cận trung tâm,
là bởi những con người có tấm lòng Cộng Sản trong sáng đã dần dần tự giải thoát
khỏi cái hàng rào ý thức Đảng, kỷ luật Đảng bấy lâu vẫn trói chặt lương tâm và
nhân cách mình. Cuối đời, nếu không hành động một chút theo lương tâm thì phút
lâm chung làm sao nhắm mắt được? Đảng ta đã vu cáo những Đảng viên yêu nước rất
trung trực như Hoàng Minh Chính, Nguyễn Hộ, Đỗ Trung Hiếu, Hồ Hiếu, Dương Thu
Hương (và hàng loạt Đảng viên trong vụ án chính trị Hoàng Minh Chính)... là
phản động, liệu có thể cứ tiếp tục vu cáo như thế với các ông Lê Giản, Nguyễn
Trung Thành, Ngô Thức, Trần Độ, La Văn Lâm, Nguyễn Văn Đào... và rất nhiều cán
bộ Đảng viên khác, là những người Cộng Sản đã dành trọn đời mình cho cuộc đấu
tranh của Dân tộc nhưng không tán thành cách làm của Đảng hiện nay, những người
mà danh sách họ cứ ngày càng dài thêm, những người Cộng Sản mà Đảng chưa kịp
khai trừ đã được nhân dân giang tay ra đón?
Điều Đảng ta dễ làm nhất
là vận hành cái bộ máy ngụy biện khổng lồ của mình. Nhưng mặc dù liên tục được
lên dây cót trên đầu và rót kinh phí vào bụng, bộ máy ấy vẫn cứ xỉu dần. Trong
một buổi lên dây cót, Tổng Bí thư Đỗ Mười đã phải lấy tay đập đập vào cỗ máy
khổng lồ ngủ gật ấy như sau: Chúng ta phải có ý thức về cuộc đấu tranh tư
tưởng. Các cán bộ trong các viện nghiên cứu khoa học tự nhiên và khoa học xã
hội, các nhà chính trị, các nhà văn hóa phải có thái độ, phải lên tiếng. Tại
sao lại ngồi yên ở vị thế bị động suốt mấy năm nay? Sắp tới còn bị động nữa nếu
ta không bàn và thống nhất với nhau; nhất là các viện nghiên cứu mà không
nghiên cứu sâu thì không thể đấu tranh với địch được! (!).
Khổ mà địch là ai? Đế quốc
Mỹ thì chắc không phải, vì nếu Mỹ là địch thì sao mỗi lần gặp địch Đảng lại
tươi tỉnh thế? Chủ lực của Địch ở đây là mấy anh cán bộ của Đảng, bị Trí tuệ và
Lương tâm Con người đánh thức, nên lại ân cần đánh thức Đảng dậy để tỉnh táo
ứng xử cho Dân tộc được nhờ, dầu biết trong số những người mà mình phải đánh
thức ấy, nhiều anh chỉ ngủ giả vờ thôi. (!).
Nhiều lúc tôi tự đặt cho
mình câu hỏi: Liệu nội bộ Đảng có đoàn kết được với nhau trong đường lối nhị
nguyên Làm kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa này không? Và
tôi tự giải đáp thế này: Bây giờ không bao cấp nữa, anh nào làm anh ấy ăn. Vậy
bộ phận Đảng làm Kinh tế thị trường ắt có ăn lớn. Còn bộ phận chính trị, tuyên
huấn chuyên lo về cái định hướng Xã hội chủ nghĩa thì chắc thiệt thòi hơn, cái
lẽ công bằng chắc phải đặt ra.
Nếu toàn Đảng đều nhất trí
quan hệ mật thiết với Mỹ thì điều này sẽ tác động rất dữ vào hai bộ phận chiến
lược của Đảng: Về Kinh tế thì Mỹ sẽ phải ngồi ghế người bạn lớn nhất vì Tài
chính lớn do Mỹ nắm, nhưng về chủ nghĩa thì Mỹ vẫn không được rời cái ghế kẻ
thù số 1, chuyên nghề diễn biến hòa bình. Phải chờ xem Mỹ chấp nhận diễn vai
kịch kép này thế nào. Đảng ta muốn làm bạn với tất cả mọi người, thì cái bộ
phận giữ gìn chủ nghĩa của Đảng cũng có quyền làm bạn với Mỹ chứ, chỗ này cũng
phải tài tình lắm mới lãnh đạo được. Nếu Đảng cứng như khối bê tông thì chỗ này
cũng phải uyển chuyển.
Khối bê tông vô địch thuở
nào nay đang tự giải thể, không phải do một lực cơ học nào tác động!
Đáng lưu ý chăng lại là
những khối bê tông mới hình thành, đang là trở ngại chính trên con đường đổi
đời của Dân tộc hôm nay: những vật liệu thoái hóa của khối bê tông cũ, cùng với
những cặn bã mới từ nhiều nguồn và một số cấu tử ngoại nhập đã liên kết nhau
bằng lực hấp dẫn của đô-la cùng vô số những chất phụ gia hấp dẫn khác. Liên kết
này tuy chỉ nhất thời nhưng trong những điều kiện nhất định có thể trở nên
những liên kết cực mạnh, như liên kết Mafia... Một giải pháp chân chính không
có gì khác hơn là một quy trình nhằm hóa giải mối liên kết đó.
III) Cái nút của giải pháp:
Nhiều người bảo tôi: Mọi
điều đều rõ cả rồi, bây giờ chỉ cần nghĩ cách gì để thoát khỏi hiện trạng này,
tiến ra nơi tươi đẹp, trong sáng mà không gây sứt đầu mẻ trán cho dân tộc, cách
gì mà mọi người đều chấp nhận được!
Ý kiến chính thống của
Đảng cầm quyền hiện nay, cũng như những ý kiến khác đều muốn đưa ra được một
quy trình cụ thể, càng cụ thể, càng mạch lạc, càng chi tiết càng hay.
Đấy là việc phải làm,
nhưng bài viết nhỏ này của tôi không trực tiếp tham dự vào công việc ấy, vì tôi
hiểu công việc ấy thật khó, nhưng cũng thật dễ. Phút sinh nở của Lịch sử cũng
dễ dàng như ở các bà mẹ vậy thôi, lịch sử vẫn đẻ như gà, nhưng thai nghén ra
sao mới là việc khó. Thai nghén thế nào để cái sản phẩm tương lai đáp ứng đúng
ước vọng của mình về mọi mặt? Mà cuộc thai nghén nào cũng là một cuộc thách đố,
vì đều diễn ra trong hộp kín, chỉ khi cái hộp kín mở ra thì mọi sự mới tỏ
tường. Sinh học hiện đại cũng chỉ mới dám mon men điều khiển phần giới tính của
đứa bé thôi, đâu đã dám đoạt quyền tạo hóa để điều khiển những chất lượng bẩm
sinh mà tạo hóa luôn tác thành từ trong bóng tối?
Bài toán thai nghén xã hội
của chúng ta còn khó gấp vạn lần bài toán sinh học. Đứa con của Lịch sử sẽ
quyết định hạnh phúc không phải của một gia đình mà hàng triệu gia đình. Nóng
vội, đẻ non tất nhiên cũng không nuôi được, nhưng lại không thể thụ động ngồi
chờ, vì Lịch sử sinh sôi đâu có hẹn kỳ, từng phút từng giờ đều có ma quỷ từ
muôn kiếp trước tranh nhau về đầu thai! Khi mắt trông thấy đứa hài nhi, là một
Người lai, trên trán có sừng chẳng hạn, thì ván đã đóng thuyền rồi!
Tạo hóa đánh đố ta, nhưng
lại mách nước cho ta bằng những quy luật. Vậy ta phải cùng nhau nghiền ngẫm kỹ
những quy luật ấy.
1/ DÂN TRÍ là nền và là
điều kiện cho những Chương trình Cải cách!
Tuy lịch sử luôn có những
ngẫu nhiên nhưng quy luật chung là: Dân tộc nào thì số phận ấy. Số phận một Dân
tộc do Dân trí của Dân tộc ấy quyết định. Nếu Dân trí chưa đủ cao để đón nhận
thì một cơ hội nổ ra chỉ càng tạo điều kiện để những thế lực cơ hội chiếm lĩnh.
Chỉ những vận hội do sự vận động tích cực của Dân trí sinh ra mới là vận hội
thực. Việc thị trường hóa, công nghiệp hóa, bình thường hóa với Mỹ, A-sê-an
hóa, Rồng hóa... đều có tính hai mặt cả, đều là con dao hai lưỡi. Dân chớ vội
thấy mà mừng. Đáng mừng hay đáng lo do trình độ Dân trí của mình quyết định.
Nhân đây, chúng ta cũng
nên mở ngoặc để nói với những con người có thiện ý giúp chúng ta. Mọi sự đều có
hai mặt, cùng một việc nhưng hiệu quả tốt hay xấu là do những điều kiện kèm
theo. Không chú ý đến điều kiện thì có khi thương nhau lại hóa bằng mười phụ
nhau đấy. Nhà yêu nước Miến Điện Ôn-san Su-chi vừa được thả tự do liền có lời
với các nước tiên tiến rằng: Chúng tôi sẽ rất cần viện trợ, nhưng ngay bây giờ
thì hãy khoan! Bà có thể lại bi bọn chính quyền quân sự vu rằng như thế là làm
hại cho đất nước, nhưng chúng ta phải lấy đó là một lời dạy về lòng yêu nước thông
minh!
Tôi chưa xây xong cái kho
đựng thóc, mà anh cứ vội mang thóc viện trợ đổ đầy đường thì chỉ béo lũ chuột.
Dân chưa thành chủ, mà các anh đã bày tiệc linh đình thì bọn đầy tớ ăn hết. Mọi
sự vật, mọi quá trình đều có tính đồng bộ nhịp nhàng bên trong. Chỉ cần làm so
le đi một chút để phá vỡ tính đồng bộ ấy là đủ lộn ngược hết thảy. Bên nào cũng
có thể lợi dụng quy luật này.
Nói đổi mới Kinh tế và
Chính trị là nên làm song song, hay cái này trước, cái kia trước đều không
đúng. Vì không nhất thiết lúc nào cũng song song hay lúc nào cũng giữ cự ly cái
trước cái sau. Vấn đề là có đồng bộ hay không! Muốn biết nhịp điệu thế nào là
đồng bộ thì phải xét trong từng việc, từng lúc, lấy hiệu quả và mục đích cuối
cùng mà đo. Đồng bộ là sự phối hợp vừa có nguyên tắc lại vừa linh hoạt, hợp lý
như người đánh võ.
Kinh tế phải đồng bộ với
Chính trị và Văn hóa. Viện trợ từ ngoài phải đồng bộ với Dân trí bên trong. Dân
trí phải đồng bộ với Dân khí, Dân sinh. Toàn bộ sự nghiệp đổi mới thì phải lấy
DÂN TR làm nền.
Trên cái nền Dân trí càng
thấp thì những đề án lừa mị càng mạnh càng dễ thuyết phục, trái lại những đề án
chân chính càng mạnh càng không có tính khả thi. Khi Dân trí cao hơn, thì những
chương trình đổi mới mạnh dạn ấy lại thành khả thi.
Tuy nhiên, không thể chờ
xây dựng tốt Dân trí mới bắt đầu làm mọi việc khác. Vậy nên phải có sự đồng bộ
giữa xây dựng Dân trí và Cải cách xã hội, Dân trí cao hơn một bước thì cuộc Cải
cách lại có thể đưa ra những yêu cầu cao hơn một bước... Hai mặt cứ tương hỗ
nhau nhiều lần trong suốt quá trình. Xây dựng Dân trí và Cải tổ cung đình cái
nọ tạo cơ hội cho cái kia. Không thể đặt một chương trình cách mạng ảo tưởng
theo kiểu làm một lần là xong, đi một mạch là tới đích!
Chủ nghĩa cơ hội luôn thù
địch với Dân trí và lợi dụng Dân trí.
Điều kiện lý tưởng cho bất
cứ bọn cơ hội nào là: Dân tộc thì ngủ, nhưng họ thì thức.
Người lớn cũng giống trẻ
con, khen thì dễ ngủ. Những ả ngoại tình chẳng thường cho con cái kẹo, nựng vài
câu cho con nhỏ lăn ra ngủ để mình thu xếp vận hội là gì?
Dân trí của ta còn thấp,
nếu không muốn nói là rất thấp, cả những người của trường phái nựng Dân tộc
cũng không thể nói rằng Dân trí đã cao. Nhưng khác nhau ở chỗ có dám vạch rõ
thấp ở chỗ nào, và ủng hộ hay ngăn cản những nhân tố căn bản để nâng cao Dân trí.
2/ CÔNG KHAI là điều kiện
quyết định để nâng cao Dân trí:
Trong mỗi bài viết, nhất
là trong phần nói về Tính cách Việt Nam (bài Đôi điều suy nghĩ...) và phần Vượt
qua Ngụy biện (bài Chia tay _ thức hệ) tôi đã cố gắng phác họa bức tranh chung
về Dân trí. Mỗi nhóm người có một đặc điểm riêng, nhưng theo tôi, nhược điểm
chung nặng nề nhất cần phải khắc phục là:
- _ thức xã hội của công
dân rất thấp, trước một khó khăn chung thì phản xạ ứng xử là tìm lối nhỏ để
thích nghi riêng. Lâu ngày nhược điểm ấy phát triển thành thói vị kỷ vô cảm và
trơ trước nỗi đau chung, nỗi đau đồng loại. Khi mở cửa, được tự do một chút thì
cái gì của riêng lập tức phát triển, cái chung ngày càng tàn tạ. Rất nhiều cái
túi riêng phồng lên là do cái kho chung cạn đi.
- Chủ nghĩa thực dụng du
kích. Nhu cầu nhận thức thấp. Không có nhu cầu chính thống, chỉ chắp vá tùy
tiện Vốn không rành mạch bao giờ (thơ Nguyễn Duy), cốt sao được việc, cốt sao
có lợi trước mắt, Việt Nam là thủ đô của Ngụy biện.
(Về chủ đề này, cần có
những công trình nghiên cứu đầy đủ hơn, và không thể không chú
trọng đến những ưu điểm, ở
đây chỉ đề cập có chừng mực trong phạm vi của bài viết này).
Muốn nâng cao Dân trí,
điều kiện quyết định nhất là phải cung cấp trí thức và cung cấp thông tin.
(Đồng thời, phải tạo điều kiện để người dân có thể làm chủ trong những hoạt
động kinh tế, kỹ thuật, văn hóa và chính trị của đất nước). Điều này nói thì
đơn giản nhưng thực tế thì vô cùng khó khăn. Vì chế độ Đảng trị của chúng ta
giữ độc quyền trong việc cung cấp những tri thức xã hội và thông tin xã hội.
Tất cả những tri thức và thông tin ấy có nhiệm vụ phải củng cố cho một ý thức
hệ phi khoa học, vừa duy tâm giáo điều, vừa duy vật thực dụng.
Vì thế, sự nghiệp nâng cao
Dân trí thực chất là cuộc đấu tranh không khoan nhượng về nhận thức giữa một
bên là Tư duy mới với một bên là _ thức hệ cũ kỹ giả tạo cùng với những biến
thể rất mô-đéc của nó trước cuộc sống mới.
Nói nâng cao Dân trí mà
không tạo điều kiện cho tự do tư tưởng và tự do báo chí thì chỉ là nói suông,
thậm chí là ý đồ kìm hãm Dân trí.
Nền tảng, cốt lõi của cuộc
Đổi mới là DÂN TRÍ, linh hồn của DÂN TRÍ là CÔNG KHAI (Glasnost). Chừng nào
chưa có CÔNG KHAI thì điều gì cũng có thể bị bưng bít, người dân không thể có
hiểu biết đúng, và không được cung cấp thông tin, do đó mà không thể nâng cao
DÂN TRÍ! Không được tiếp nhận đầy đủ mọi nguồn thông tin thì nói gì đến chuyện
làm chủ?
Rút cuộc thì cục diện đấu
tranh giữa một bên đòi mở rộng tính CÔNG KHAI và một bên kìm hãm tính CÔNG KHAI
sẽ quyết định sự tiến triển hay thoái bộ của toàn bộ quá trình đổi mới đất
nước. Sự ủng hộ cho tính CÔNG KHAI là tiêu chuẩn số một để xét xem anh có muốn
đổi mới thật hay đổi mới giả! Cứ xem tính CÔNG KHAI được mở rộng tới đâu thì
biết công cuộc đổi mới đã đi được tới đó. Quan hệ toàn diện với Mỹ, vào khối
Asean... là những sự kiện quan trọng đối với Đổi mới nhưng không phải là thước
đo thành tựu của Đổi mới.
IV/ Triều đại phong kiến
cuối cùng cần có sự thoái vị
a/ Thực chất trào lưu cộng
sản và phương án đổi mới hiện nay
Trong phần 2 và phần 3 tôi
đã trình bày thực chất của Trào lưu Cộng sản thế giới thế kỷ 19-20 và vai trò
tích cực cũng như tiêu cực của nó trong lịch sử.
- Về Triết học, về Tiến
hóa luận thì Chủ nghĩa Duy vật lịch sử là một lý thuyết tư biện, duy tâm chủ
quan và siêu hình, cực đoan và phiến diện, đem phong trào nhất thời làm quy
luật tổng quát. Lý luận ấy chỉ có giá trị để phê phán xã hội lúc ấy, chứ không
thể hòa nhập vào thế giới ngày nay, lại càng không thể dùng vào việc xây dựng
một xã hội văn minh sau này.
- Về Chính trị học, đó là
biến tướng của nền Đức trị phong kiến mang màu sắc Công nghiệp, (thậm chí mắc
bệnh Công nghiệp), nó mâu thuẫn về nguyên tắc với nền Dân chủ của thế giới ngày
nay, vì nó dựa hẳn vào nền Đạo đức giả định của một giai cấp tiền phong giả định,
để cố định một bộ máy chuyên chính thật của một Đảng độc quyền thật, nhân danh
nhân dân để tước đoạt hoặc ức chế quyền làm chủ của nhân dân.
Chuyên chính Vô sản là
cuộc thử sức cuối cùng của triết lý Đức trị trước Lịch sử, là ngọn lửa Phong
kiến sắp tàn lại bùng lên một lần cuối cùng trước khi tắt hẳn.
- Đối chiếu với những giá
trị phổ quát nhất và vững bền nhất của quá trình tiến hóa nhân loại là VĂN HÓA
và NHÂN QUYỀN thì trào lưu tranh đấu dưới ngọn cờ búa liềm thế kỷ 19-20 là một
trào lưu chân chính và tất yếu cho những NHÂN QUYỀN tối thiểu, nhưng là một
trào lưu ở tầm VĂN HÓA thấp.
- Trào lưu Cộng sản đã
hoàn thành sứ mệnh lịch sử nói trên một cách xuất sắc, trong đó có thành quả về
giành quyền tự quyết cho nhiều dân tộc bị áp bức.
Nhưng sau khi giành được
những NHÂN QUYỀN tối thiểu, nó lại ngộ nhận về vai trò lịch sử của mình. Đáng
lẽ phải trút bỏ hoàn toàn những nguyên lý chỉ dùng cho việc khởi hành, nó lại
sử dụng những nguyên lý ấy để đi tiếp những đoạn đường mới đã khác hẳn về chất
so với những đoạn đường cũ. Ví như trong cuộc chạy tiếp sức, nếu đấu thủ vô
địch ở đoạn đầu cho rằng không ai thay nổi mình nên cứ giành quyền chạy tiếp
thì càng chạy càng đuối sức, và đội của anh ta chắc chắn sẽ về đích sau cùng.
Vì quá kéo dài một ưu
điểm, nên sau đó những khủng hoảng đã bắt đầu rồi ngày một gia tăng. Bên cạnh
sự suy sụp kinh tế là sự suy sụp văn hóa. Trong sự tha hóa toàn xã hội thì quan
trọng nhất là sự tha hóa chính những người nắm quyền lực, tức sự tha hóa của
đội ngũ tiền phong của giai đoạn trước, vì chính điều này sẽ quyết định chiều
hướng của cuộc đổi mới của giai đoạn sau.
Trước làn sóng Dân chủ hóa
và Thị trường hóa toàn cầu của kỷ nguyên Văn minh Tin học, hệ thống thế giới
Cộng sản không còn đủ sức bao cấp cho sự ổn định phi lý của mình. Sợi dây bảo
hiểm đứt phựt, khối Cộng sản rơi tung tóe, mạnh ai nấy chạy. Những quốc gia đã
có chút truyền thống Dân chủ Tư sản thì tìm được đường về với cộng đồng nhân
loại tương đối dễ dàng. Những quốc gia kém tỉnh táo thì bị những mâu thuẫn dồn
ép bấy lâu trong cái vỏ ổn định giả tạo, nay bùng ra thành ngọn lửa nội chiến
tàn bạo và đau thương. Riêng mấy nước châu phong kiến đặc sệt, sau phút choáng
váng định bước theo nước Cộng sản đàn anh, thì định thần lại, thấy trong ngõ
tối thâm u của núi rừng châu , vẫn có chỗ cho những chúa sơn lâm có thể vạn đại
dung thân, bèn rút quân về đó, cố thủ.
Việc mấy nước Cộng sản
châu trụ lại được trong cái vỏ Cộng sản có cái lý của nó. Trước đây, khi theo
lý thuyết Chuyên chính Vô sản mấy nước ấy cũng không chính chuyên gì. Cộng sản
châu Âu mang tiếng là xét lại nhưng lại là Mác chính thống. Chủ nghĩa Mao ít
châu bị xếp vào loại giáo điều, kỳ thực là giáo điều của Mao chứ đâu phải giáo
điều của Mác. Mao Trạch Đông đã từng tuyên bố là không có thì giờ để đọc
Mác-Lênin! Cứ cái chất Phong kiến Gia trưởng mà cập nhật hóa đi là thành Chuyên
chính chứ có khác gì lắm đâu mà phải học? Những người Cộng sản Việt Nam lúc đầu
vào Đảng là để đánh Pháp đuổi Nhật chứ mấy ai được biết sách vở kinh điển của
Mác ra sao ngoài mấy câu Mác-Lê truyền khẩu? Ngay từ đầu đảng Cộng sản châu đã
đồng hóa chủ nghĩa Mác theo thể trạng của mình, để làm việc của mình. Vi thế
khi thấy Mác lung lay, những lãnh tụ Cộng sản châu đã kịp thời điều chỉnh đến
mức cần thiết, thực chất là good bye Mác một cách không bịn rịn gì, đâu có dại
chịu đổ theo Mác? Có thể bỏ chủ nghĩa Mác, chỉ lọc lại cái phần hữu ích nhất
cho mình là sự độc quyền lãnh đạo, không chia xẻ với ai!
Đối với nền văn minh mới
thì ta chỉ lọc ra để sài cái phần hữu ích nhất là Kinh tế thị trường và làm bạn
với tất cả mọi người, nhất là những người giàu có. Còn cái phần bất lợi cho
mình là Dân chủ Đa nguyên thì vứt bỏ. Lọc lấy hai cái cốt lõi béo bở nhất của
hai hệ thống ấy, ghép lại là thành nền văn minh hiện đại của ta. Thế mới hóm
chứ! Làm kinh tế Thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa chính là đứa con
lai láu cá đó. Trong cách tính toán ấy làm gì có DÂN?
Nhưng sự thành công của
phương án châu ấy lại rất cần một yếu tố thuộc về Dân: đó là tình trạng nghèo
khổ của Dân và tình trạng Dân trí thấp! Nếu Dân trí như ở Hung, ở Tiệp... thì
thôi khỏi phải bàn. Dân trí thấp, nên cứ dọa cho một mẻ là yên. Nếu khéo tận
dụng tình trạng Dân trí thấp ấy thì còn được Dân bảo vệ nữa. Thấy nói nhiều
nông dân ngoại thành Hà Nội trước không khí đổi mới hồ hởi năm 86-87 đã nắm tay
đe: Đứa nào đòi Pháp trị, Đa nguyên, động đến Đảng ông đánh bỏ mẹ!
Dân chưa hiểu Pháp trị là
thể chế Dân chủ để bảo vệ mình khỏi các thứ TRỊ khác. Thấy nói Pháp trị lại
nghĩ là dùng luật PHÁP để TRỊ nên sợ hết vía, bèn đi cầu cứu lòng thương dân
của Đức trị, khiến cho mấy ông Đức trị cười thầm: thế mới biết cái bẫy Đức trị
của các Cụ thánh thật, càng say đạo đức, càng hướng thượng bao nhiêu thì càng
rúc sâu vào bẫy của ta bấy nhiêu!
b/ Phải bắt đầu từ cách
nhìn văn hóa va cách ứng sử văn hóa
Khi cuộc đấu tranh cho
Quyền Con người còn ở tầm Văn hóa thì nó chỉ xoay quanh những nhu cầu sinh tồn
tối thiểu, thiếu những thứ ấy thì chết ngay, nên tâm lý tranh đấu là loại tâm
lý đơn giản nhưng quyết liệt, cứ một mất một còn, một là chết, hai là được cả
thế giới! Bây giờ đổi với số đông trong xã hội ta, nhu cầu tối thiểu ấy đã được
vượt qua, cuộc vận động để dân chủ hóa xã hội là cuộc tranh đấu ở một tầm Văn
hóa cao hơn, nhưng tâm lý tranh đấu kia vẫn còn.
Bởi vẫn giữ tâm lý tranh
đấu đơn giản nhưng quyết liệt ấy, người ta phân liệt nhau, kỳ thị nhau, quy kết
nhau một cách hết sức đơn giản và võ đoán: đã phê phán học thuyết Mác-Lê tức là
ăn phải bã của Thực dân, Đế quốc. Đã không tán thành cái định hướng Xã hội chủ
nghĩa và phê phán đường lối của Đảng cầm quyền tức là phản động, phải bỏ tù. Đã
phê phán sự độc quyền và yêu cầu dân chủ tức là nằm trong âm mưu diễn biến hòa
bình, bạo loạn lật đổ. Đã không còn nguyện một lòng theo Đảng tức là sa sút
phẩm chất chứ không thể là tăng phẩm chất được. Đã có quan điểm khác với Đảng
thì chắc là bất mãn vì thiệt thòi quyền lợi. Đã Đa nguyên là sẽ đánh nhau và có
nguy cơ mất nước... vân... vân...
Cuộc sống Văn hóa dần dần
sẽ giúp con người nhận ra sự đời không phải vậy, không gian của con người rộng
rãi hơn thế nhiều, đường đời không phải chỉ một lối độc đáo. Cuộc sống rất đa
dạng và luôn có nhiều khả năng. Ta sẽ nhìn các mâu thuẫn trên đời một cách
khoan dung và có Văn hóa hơn. Trước sự bao dung của đồng loại ta sẽ thấy ngượng
vì cái ý thức đấu tranh giai cấp quá thường trực và quá sắc bén của mình. Ta sẽ
tự tin hơn, đồng thời biết tin người khác, hiểu rằng những anh hùng khi hết sứ
mệnh có thể cứ yên tâm mà rút lui, xã hội sẽ không vì vắng mặt anh mà tắc tỵ.
Và nhất định sẽ đến một
lúc tâm hồn ta thanh thản, để nhận ra rằng cuộc đời vốn vẫn Đa nguyên.
Vươn được tới tầm nhìn Văn
hóa, người ta sẽ có những khát vọng Văn hóa, sẽ hiểu ra lẽ biện chứng nhân bản
giữa đấu tranh và dung thứ, đấu tranh mà tâm không ác, dung thứ nhưng không
tha. Đấu tranh không phải vì bất mãn cho mình mà bất mãn thay cho người khác.
Lòng trung thực buộc ta phải đẩy nhận thức tới tận cùng cho rõ trắng đen mà
hành vi lại độ lượng.
Cuộc đấu tranh ở tầm Văn
hóa thấp là cuộc chọn lựa giữa zêrô và số 1, cái mới phủ định hoàn toàn cái cũ,
thua là hết sạch không còn gì. Cuộc đấu tranh Văn hóa cao là cuộc chọn lựa giữa
một 9 một 10. Cái mới dẫu thắng vẫn bảo toàn cái cũ, chỉ nâng cao thêm một
đoạn, nhưng là một đoạn không thể bỏ qua, vì chính cái đoạn nhỏ chênh lệch ấy
xác định hẳn một tầm Văn hóa.
Một bước tiến nhỏ ở tầm
cao khó khăn hơn nhiều bước nhảy vọt ở tầm thấp. Giống như một quy trình sản
xuất đã tối ưu rồi còn muốn tăng năng suất lên 0, 1%. Giống như hai đội bóng
ngoại hạng trứ danh vẫn phải phân ngôi nhất nhì trong một trận chung kết.
Có cái nhìn Văn hóa ta sẽ
thấy cuộc đổi mới của chúng ta đã có rất nhiều mặt được, nhưng lại có những mặt
chưa được. Cái chưa được ấy dường như rất ít nhưng không thể nhân nhượng vì nó
bao trùm như ánh sáng, như không khí ta thở, như nhân cách con người. Không có
nhân cách người ta vẫn sống, thậm chí còn sống béo tốt hơn. Nhưng đến một trình
độ Văn hóa nhất định người ta sẽ thấy thiếu cái vi lượng con con ấy thì không
sống được. Bởi sự sống lúc ấy đã bỏ xa nghĩa sống sinh vật.
Có cái nhìn Văn hóa sẽ
nhận ra rằng khi đã hòa nhập vào Thời đại để làm Kinh tế thị trường mà vẫn giữ
ý thức hệ Vô sản độc tôn, thì mỗi câu mỗi từ trong ngôn ngữ giao tiếp của ta
đều luôn hai nghĩa; trong khoảng vũ trụ Nhị nguyên này đạo đức chỉ là cái vỏ
ngôn ngữ để phát ngôn bề nổi cho hợp chủ nghĩa, ở tầng ngầm nó sẽ được tự động
phiên dịch ra cái nghĩa trần trụi của một thứ Thị trường dã man. Và thói quen
Ngụy trang này sẽ gậm nhấm cả một Dân tộc. Không thể bắt giống nòi phải trả cái
giá ấy cho cái gọi là sự ổn định, mà kỳ thực chẳng có gì ổn định ngoài sự ổn
định quyền lực lãnh đạo của một tập đoàn.
Thay
lời kết
Triều Đại Phong Kiến Cuối
Cùng và Chiếc Bình Phong!
Lòng yêu nước và khát vọng
tự do hạnh phúc đã đưa nước ta vào quỹ đạo Cộng sản với sự trả giá khá đắt.
Nhưng trí tuệ Nhân loại, cùng với thực tiễn xã hội hôm nay lại chứng minh rằng
con đường đã giúp ta đổi xương máu lấy Độc lập ấy không có khả năng đưa ta tới
đích cuối cùng vì đó chỉ là một ngõ cụt, những người bạn đi trước trên con
đường ấy đều đã quay trở lại. Điều này không ai mong muốn, song đã là sự thật.
Do bản chất nhạy bén, nên thực tình thì chúng ta đã quay về với con đường chung
của thế giới rồi, cái ngõ cụt kia đang lùi lại dần phía sau như một kỷ niệm
không thể nào quên của thời ấu trĩ.
Đáng lẽ phải bộc lộ thẳng
thắn với nhau về sự thật ấy, để có thể quên đi phần quá khứ thù hận, tha thứ
cho nhau mọi lỗi lầm đã qua, tập hợp lại mọi vốn liếng của Dân tộc, cùng nhau
hợp sức làm lại sự nghiệp của đất nước trong sự bao dung, hỗ trợ của bạn bè năm
châu. Chỉ có sự chân thành như thế mới gây được khí thế hồ hởi và lòng tin cậy
lẫn nhau, chỉ có sức mạnh tinh thần ấy mới chấp cánh cho những sức mạnh vật
chất, để đưa Dân tộc tới một tương lai sáng lạn, một tương lai đã hiện ra trong
tầm mắt. Song hy vọng ấy chỉ lóe sáng trong khoảnh khắc, rồi cả Dân tộc đã sa
vào cách đổi mới như hiện nay.
Tại sao một sự lựa chọn
tưởng có thể đơn giản mà cuối cùng lại không đơn giản?
Vì chủ nghĩa Cộng sản đi
qua loài người đã để lại trên những quốc gia Cộng sản ba hậu quả:
- Một nền sản xuất và kinh
tế trì trệ, phi quy luật.
- Một bộ máy chuyên chế
khổng lồ.
- Một hệ tư tưởng và văn
hóa lạc hậu, giả tạo, phục vụ cho nền sản xuất và bộ máy kể trên.
Trong ba yếu tố ấy, thì
yếu tố thứ hai mới là yếu tố có vai trò quyết định khả năng chuyển hóa đất nước
trong hòa bình.
Bộ máy này có mặt ưu và
mặt nhược rất đặc trưng. ƯU ở chỗ: bộ máy ấy trưởng thành từ phong trào giải
phóng dân tộc dầy dạn kinh nghiệm, có khả năng quy tụ và vận động quần chúng
đông đảo, nhất là nhân dân lao động, đây là năng lực quý giá mà một lực lượng
cầm quyền không dễ gì có được, không phải ngẫu nhiên mà có được. Ưu điểm này
nếu được phát huy sẽ thành nhân tố rất thuận lợi cho sự đổi mới đất nước một
cách trong sáng và ổn định, bỏ định hướng Xã hội chủ nghĩa ảo tưởng để chọn mục
tiêu thiết thực dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh. Người tiền
phong trong việc cứu nước sẽ lại có khả năng tiền phong trong công cuộc đổi
mới.
Nhược ở chỗ: đây là pháo
đài của ý thức hệ chuyên chính Vô sản, một kiểu Đức trị phong kiến chuyên chế
nhiều đặc quyền đặc lợi, nặng tính duy lợi và duy tín hơn là duy lý, nặng đầu
óc phân liệt, kỳ thị với trí thức và dân chủ. Nhược điểm này bấy lâu vẫn thường
xuyên tha hóa đội ngũ tiền phong kia, và khi gặp cơ hội nó có thể biến bộ máy ấy
thành trở ngại khổng lồ, rất khó khắc phục đối với công cuộc đổi mới.
Những năm 1986-1988 là
thời gian tranh chấp giữa hai khả năng ấy.
Nhưng không may cho Dân
tộc chúng ta, tình hình diễn biến phức tạp ở một số nước trong khối Liên Xô cũ
và Đông Âu, ở Trung Quốc cuối những năm 80 đã tác động bất lợi đến Việt Nam.
Tình hình ấy đã kích động
bản năng tự vệ của tầng lớp lãnh đạo, làm cho cán cân nghiêng về mặt tiêu cực
và cướp mất của Dân tộc chúng ta cái cơ hội nghìn năm có một, để đổi mới đất
nước trong tinh thần cởi mở, trong sáng và hòa hợp, hòa giải. Để hôm nay lại
phải khó nhọc từng bước tìm kiếm lại tinh thần trong sáng ấy. Những người Cộng
sản còng nặng lòng với Dân tộc đã dần dần nhận ra rằng muốn tiếp tục sống có
lương tâm không thể không phân biệt mình với thế lực không trong sáng kia.
Đã lỡ mất một cơ hội lịch
sử để Đảng của một chủ nghĩa Giai cấp cực đoan có thể thăng hoa, hóa thân trở
về thành một Đảng có tính chất Dân tộc Dân chủ, thế là Đảng ấy lại trở về với
quy luật ích kỷ muôn thuở: hòa nhập với thế giới song lại không muốn mất đặc
quyền đặc lợi, nên bộ máy ấy đã chủ động thay đổi yếu tố thứ nhất (tức nền kinh
tế), đồng thời cố duy trì yếu tố thứ ba (tức những nguyên tắc chính trị tư
tưởng của Chủ nghĩa), dùng cả hai yếu tố ấy phục vụ cho mình. Từ đấy hình thành
phương án Kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Và chỉ cần thế
thôi là tự nhiên phải áp dụng một chính sách hai mặt, tự nhiên không thể cởi mở
thẳng thắn với nhau, nói gì cũng cứ ngọng nghịu! Thay vì chân thành, cởi mở và
tin cậy lẫn nhau, lại phải tiếp tục nói dối, lại phải tiếp tục đối phó với
nhau! Tham nhũng như rươi nhưng cứ chạy quanh trong một trận đồ bùng nhùng hai
mặt, và phát triển thành một quốc nạn bất trị.
Tham vọng ấy không có gì
lạ và bài bản ấy cũng chỉ là cái lôgíc thông thường của cuộc đấu tranh sinh tồn
tầm thường. Đáng lẽ cái cơ hội thăng hoa kia đã có thể kéo Dân trí, Đảng trí
lên một bậc (Đảng với tinh thần Dân tộc, Dân chủ!) để làm nền cho sự cất cánh;
thì nay ngược lại, Dân tộc đang phải làm cái việc gây dựng lại Dân trí, Đảng
trí từng chút một, để tựa vào đó mà vực tình hình lên.
Nhưng nay không còn con
đường nào khác. Bởi chỉ những vận hội bắt nguồn từ sự phát triển của Dân trí
mới là vận hội thực của Dân tộc. Kẻ cơ hội một mặt cố tình câu giờ, trì hoãn
việc đổi mới khi họ chưa thu xếp xong mưu kế, một mặt lại muốn tranh thủ tạo ra
những vận hội càng nhanh càng tốt, trong khi Dân trí chưa kịp phát triển để cản
trở cách đổi mới rất nhanh của họ. Trạng thái giao thời này là thời điểm lý
tưởng để tranh thủ làm ăn kiếm lợi nên được rất nhiều người (cả bên trong lẫn
bên ngoài) ưa thích cũng không có gì đáng ngạc nhiên. Khi những người tử tế
tỉnh ngộ ra thì ván đã đóng thuyền!
Dân tộc lại một lần nữa
đứng trước nhu cầu: Khai DÂN TRÍ, chấn DÂN KHÍ, hậu DÂN SINH (hậu là bồi đắp)
như khẩu hiệu mà nhà ái quốc Phan Chu Trinh hô hào thuở trước. Vẫn phải giải
lại bài toán ngày xưa, nhưng với những thông số mới hôm nay.
Lời hô hào về một cuộc
kháng chiến mới (theo cách nói của người Cộng sản lão thành Nguyễn Khắc Viện)
cũng là một lời khai Dân trí, chấn Dân khí đầy tinh Văn hóa vậy.
Đây là cuộc đấu tranh nội
bộ của Dân tộc, không phải chuyện địch, ta. Không ai có thể làm thay. Quyền
phán xử cuối cùng thuộc về nội bộ Dân tộc.
Đây là cuộc diễn biến hòa
bình đầy tính Văn hóa. Không có sự được thua một mất một còn. Cái mới phải
thắng, nhưng tất cả những giá trị chân chính cũ phải được bảo tồn, tất cả những
dự định chân chính đã có vẫn được tiếp tục. Lỗi lầm cũ còn được tha thứ thì
công lao cũ sao lại cần phải phủ định? Không một xáo động bạo hành nào được
phép xảy ra. Xã hội vẫn hòa bình mà đi lên, tất nhiên cần điều chỉnh rất nhiều
nhưng không cần có bước lùi nào cả.
Song sự đấu tranh có tính
chất ôn hòa và văn hóa ấy không thể đồng nghĩa với sự ổn định giả tạo một chiều
hiện nay. Thái độ lảng tránh trách nhiệm công dân, thái độ ngậm miệng ăn tiền
sao có thể coi là có văn hóa được? (Không đấu tranh tới nơi thì chẳng cái gì có
thể nhúc nhích!). Im lặng nuôi dưỡng sự áp bức, câu nói ấy của nhà Văn hóa, cựu
Tổng thống Pháp F. Mitterrand thật đáng cho ta suy nghĩ. Tôi nghĩ nếu ai hù dọa
chúng ta rằng đấu tranh cho Dân chủ tất yếu dẫn đến bạo loạn, quy những cuộc
chém giết dã man trên thế giới là do tinh thần Dân chủ đa nguyên thì chẳng
những không hiểu biết gì, mà là còn tiếp tay cho những luận điệu phản động,
không muốn cho dân ta mở mày mở mặt, chỉ muốn duy trì một Nhân dân ngoan ngoãn
để dễ bề sử dụng. Nếu thích tìm địch thì hãy tìm địch ở đấy!
Cái cũ chuyên chế, chật
hẹp nên buộc phải phủ định những cái khác với mình để tồn tại. Chỉ cái mới, cái
đa nguyên pháp trị, phi ý thức hệ, mới có khả năng bao dung. Nếu quy luật tiến
hóa là t thì ổn, nhiều thì loạn thì nhân loại làm gì có nền văn minh hôm nay?
Chỉ có đấu tranh hòa bình để đạt tới sự phát triển lành mạnh mới là sự ổn định
thực, ổn định biện chứng. Dùng bạo lực của Chuyên chính để giữ ổn định thì sự
ổn định ấy chẳng những không lành mạnh mà còn là ổn định giả, mâu thuẫn không
được khơi thông, cứ tích lũy sẽ sinh bạo loạn.
Đây là cuộc đấu tranh công
khai. Chẳng những rất công khai mà còn phải lấy CÔNG KHAI làm nguyên tắc, làm
luật chơi. Trước hết phải đấu tranh cho tính CÔNG KHAI, lên án mọi sự dấm dúi.
Bóng tối chỉ có lợi cho cái c. Khi Đảng đã tự nhận lấy trách nhiệm là người
lãnh đạo cả xã hội và ghi vào hiến pháp thì mọi việc của Đảng đều ảnh hưởng đến
xã hội, sao còn là việc nội bộ của Đảng được? Không thực hiện được tính CÔNG
KHAI, thì mọi phương án đổi mới để dân chủ hóa và pháp trị hóa xã hội chỉ là
chuyện để nói cho vui.
Một mặt phải đấu tranh
trong khuôn khổ luật pháp, bảo vệ phần luật tiến bộ. Một mặt phải đấu tranh để
cải thiện chính luật pháp. Có vậy luật pháp mới không mâu thuẫn với phát triển,
nhất là khi một nền luật pháp còn ở giai đoạn đang hình thành.
Từ ngày có công cuộc đổi
mới, về Kinh tế chúng ta đã có nhiều bước tiến rất đáng kể, cũng không ít những
thành quả rất đáng vui mừng.
Nhưng tất cả những điều
tôi đã trình bày chắc cũng có thể nói lên phần nào tính chất rất phức tạp của
tình hình, không đơn giản như cái vẻ bên ngoài của nó.
Nếu không vì một khát vọng
có tính Văn hóa cao thì những người dân Việt quả thực đã có thể cho phép mình
tạm nghỉ ngơi đôi chút để lo cho mình, mà chẳng cần mệt óc nghĩ điều nọ điều
kia làm gì, để làm phiền lòng những cấp lãnh đạo!
Một khát vọng mang tính
Văn hóa! Ấy là khát vọng muốn nhân vận hội này mà đưa Dân tộc ta bứt lên, bứt
lên không phải chỉ để nâng cao một chỉ số GDP, không phải chỉ để cải thiện đời
sống, không phải chỉ để hòa nhập được vào thế giới, không phải chỉ nhằm được
hóa rồng, mà để Dân tộc ấy tự cải tạo rũ bỏ những khuyết tật để nâng mình lên
một tầm vóc văn minh thật sự (chứ không phải cái tầm vóc hào nhoáng mà ta vẫn
tự phong), lên một tầm vóc mà tiềm năng của Dân tộc cho phép và sự nhọc nhằn
của Dân tộc đáng được đền bù!
Cách đi của nước ta hiện
nay mâu thuẫn với khát vọng Nhân văn ấy, nên không tạo được nền tảng Văn hóa
vững chắc cho sự phát triển Kinh tế lành mạnh, xây dựng một nền Dân chủ pháp
trị, công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước như ta mong muốn.
Khi ta nắm toàn bộ quyền
lực trong tay, ta có thể cứ làm Dân chủ giả mà chẳng ai làm gì được, chẳng ai
cãi nổi miệng ta, mà khối người còn phụ họa và ca ngợi. Nhưng trời đất công
bằng ở chỗ: nếu không thành tâm thì không thu phục được lòng người, nhất là
những người tiên tiến, nên không thể có sức mạnh cội nguồn, và trước sau gì Dân
tộc cũng bắt ta quay trở lại, trả cái món nợ mà Dân tộc đã tạm ứng cho ta hoặc
ta đã khôn ngoan chiếm đoạt. Ta có thoát được đời mình thì con cháu mình lại
phải trả nợ cho mình, làm sao quịt được nợ Dân tộc?. Khốn nỗi, chung quy người
bị tổn thất vẫn là Dân tộc, nên mới phải cùng nhau ngăn chận để sự trừng phạt
ấy đừng phải xảy ra.
Trái lại, nếu có một đường
lối đổi mới quang minh chính đại, xuất phát từ nhãn quan Văn hóa và cách giải
quyết có tính Văn hóa, lấy CÔNG KHAI làm nguyên tắc, ai có ý kiến xuôi ngược gì
đều được nói cho mọi người cùng nghe, vận mệnh Dân tộc để cho toàn dân thực sự
định đoạt, thì chẳng có sự xáo trộn tàn bạo nào có thể xảy ra tất cả những
thành tựu đã có đều được bảo toàn, tất cả những dự định chính đáng đều được
tiếp tục, và một niềm hạnh phúc vô giá sẽ được chia cho tất cả mọi người là cái
không khí thanh bình, sung sướng được nhìn vào mắt nhau chứa chan tin cậy,
hưởng thụ mọi tiện nghi trong sự kiêu hãnh làm người. Điều ấy mười bộ máy tuyên
truyền khổng lồ của ta hiện nay cộng với trăm tỷ đô la viện trợ cũng không làm
được!
Một nền Chính trị có Văn
hóa, một mặt có thể căn cứ vào trình độ quần chúng quảng đại để hoạch định
những chính sách trước mắt thích ứng với số đông, nhưng mặt khác không được lấy
tình trạng Văn hóa thấp ấy làm giới hạn hoặc lợi dụng nó, trái lại phải tìm
cách thỏa mãn những nhu cầu có tính VĂN HÓA và NHÂN QUYỀN của cái thiểu số đã ở
tầm DÂN TRÍ cao hơn. Chính sự trân trọng thiểu số ấy sẽ đảm bảo sự công bằng
cho số đông và nâng dần Dân tộc lên, mà không cần đem người này làm tiêu chuẩn
tức khắc để gò người kia. Nếu cuộc đấu tranh giành cơm áo lấy chủ lực ở số đông
lớp dưới, thì cuộc đấu tranh vì Văn hóa lấy chủ lực ở những thiểu số ở tầng Văn
hóa trên cũng là thuận lẽ tự nhiên.
Bằng cách ấy, những nhu
cầu cao sẽ được thực hiện dần dần, có sự dung hòa giữa khả năng và hiện thực,
giữa quyền lợi và nghĩa vụ, dung hòa giữa những khối người có trình độ và nhu
cầu rất chênh lệch nhau trong xã hội. Một tinh thần đa nguyên rộng rãi như vậy
may ra có thể mở lối thoát cho tất cả mọi người.
Trong đấu tranh nội bộ,
nhiều khi ta có khả năng sửa lỗi, nhưng khi có cái bình phong bên cạnh thì cái
lỗi cứ nấp vào đấy. Trong trường hợp này, giúp nhau sửa đổi không gì bằng cất
hộ nhau cái bình phong ấy đi!
Càng suy nghĩ về nội dung
cũng như về hiện tình của _ thức hệ Mác xít, tôi càng thấy rõ đây là một _ TH_C
A PHONG KIẾN TRÁ HÌNH của triều đại phong kiến cuối cùng đang kìm hãm sự tiến
bộ xã hội, và được dùng làm BÌNH PHONG cho những yếu tố tiêu cực ẩn nấp. ít ai
có ý nghĩ muốn phá cái bình phong ấy đi, trái lại ứng xử theo kiểu: Cứ để nó
đấy, anh nấp tôi cũng nấp, chúng ta hiểu nhau cả mà! Sống thời nào ta theo thời
ấy, gặp thời Mác-Lê thì ta làm luận văn Tiến sĩ về Mác-Lê mà sống, cãi nó làm
gì? Đấy là bí quyết của môn phái hiệp khí đạo đấy!... .
Hình như cứ để nó đấy cũng
chẳng chết ai thật, nhưng sao tôi cảm thấy một cái gì khốn nạn quá, chịu không
nổi, nên cứ phải nói ra!. Sao lại không chết ai? Khối kẻ đã chết theo nghĩa
đen, khối kẻ đang sống dở chết dở vì cái bình phong ấy, và cả một Dân tộc đang
chết theo nghĩa CHẾT chân chính của CON NGƯỜI, chứ sao không chết?... những
nước khác, thì chắc một cái bình phong không bao giờ lại đáng quan tâm đến thế!
Nhưng Việt Nam thì khác, bình phong là tất cả, vì Việt Nam là THỦ ĐÔ của ngụy
biện!.
Ngụy biện trước hết là cái
bình phong để mình không phải đối diện với Lương tâm và Trí tuệ của mình! Thế
là mình thảnh thơi, muốn làm gì thì làm, nói gì thì nói, tha hồ truồi như trạch
như lươn, thời nào cũng sống được. Đổi mới, đổi cũ thế nào mình vẫn kiếm lãi.
Đó là thủ thuật để không
bao giờ phải trực diện đương đầu với cái c, cũng như không bao giờ phải trực
tiếp đối phó với cái Thiện!
Đó là tấm khăn của nhà ảo
thuật, khi tấm khăn được mở ra thì không đã thành có, có đã thành không rồi!
Mắt trông thấy rành rành vậy mà không phải vậy!
Đấy là Võ Việt Nam, cũng
là Xiếc Việt Nam! (Xin các Võ sĩ và các Nghệ sĩ Xiếc thứ lỗi cho tôi được mượn
từ ngữ cao quý của các bạn).
Quy luật tư tưởng ư, Chính
thống ư, Chuẩn gì đã đến nước này cũng phải Du kích hóa! Ấy là cái bất biến
Việt Nam để ứng xử với vạn biến trên đời!
Người ta sống bằng Ngụy
biện, lập nghiệp bằng ngụy biện, giết nhau cũng bằng Ngụy biện!... Vượt vạn
trùng vây, bách chiến bách thắng mà trong tay chỉ một chiếc bình phong biến
hóa.
Người ta thường nghĩ một
cách đơn giản rằng thời buổi kinh tế này thì mất công đấu tranh tư tưởng làm
gì, bởi không biết cái bình phong ấy, với tất cả thiết chế và hệ lụy của nó,
hàng ngày ngốn của nhân dân bao nhiêu tiền! ít người hiểu được rằng để có một
ngày ổn định theo phương án hiện nay, ngân quỹ phải chi bao nhiêu tiền để kê
cho bằng những chỗ khập khiễng, bao nhiêu vai gầy của người dân ghé vào để cho
tòa lâu đài bị sụt móng kia có thể gượng đứng thẳng bình thường mà tiếp đón
khách thập phương! Nhưng những phí tổn ấy không thấm vào đâu so với sự trả giá
cho những băng hoại về văn hóa đang diễn ra hàng ngày, sau tấm bình phong đó.
Muốn biết cái bình phong
quan trọng nhường nào thì cứ thử giật bỏ nó đi mà xem, người ta sẽ lăn xả vào
ôm ghì lấy nó để bảo vệ hơn cả bảo vệ người thân. Và nếu giật bỏ được thì cả
cõi Việt Nam này bừng sáng! Vì chỉ từ đó mọi việc mới có thể bắt đầu một cách
trong sáng, mọi sự vật mới mang ý nghĩa thật của nó!
Học thuyết Mác-Lê tuy
không dùng được vào việc xây dựng xã hội văn minh ngày nay, và tuy đã gây cho
nước ta những tổn thất không phải không đau đớn, nhưng cũng đã công giúp chúng
ta huy động sức mạnh Dân tộc làm cuộc khởi nghĩa Tháng Tám và cuộc kháng chiến
chống ngoại xâm, thay đổi vị trí nước ta trên bản đồ thế giới, đã cùng nhân dân
ta có những ngày sống tốt đẹp, và về một mặt nào đấy cũng góp phần cho con
người Việt Nam trưởng thành.
Hãy có cách hành xử trượng
phu để Chủ nghĩa ấy được từ biệt nhân dân ta một cách công khai, chia tay trong
tình nghĩa. Chủ nghĩa ấy đã phải vào bằng con đường bí mật, nay đất nước ta đã
có độc lập, nên tiễn Chủ nghĩa ấy ra đi bằng của trước. Hãy để cho Chủ nghĩa ấy
được ra đi thanh thản! Nếu ở giai đoạn cuối cùng này, vì tham chút lợi riêng mà
bắt Chủ nghĩa ấy phải đóng nốt vai trò của cái bình phong, che đậy những điều
khuất tất để gây thêm ác cảm cho những thế hệ Việt Nam sau này, thì chẳng hóa
ra chúng ta định lấy oán trả ân cho Mác sao? Việt Nam ta sành chơi bình phong,
học thuyết nào đến đây cũng không thoát được, nhưng thôi, với Mác, nên tha cho
Mác!
Tôi đã liều lĩnh vượt qua
cái trở ngại quá lớn là trình độ thô thiển của mình mà giải bày chút nhận thức
nông cạn, cũng chỉ cốt để được thu nhận sự chỉ bảo của bạn đọc kính mến.
Đổi Mới là gì? Nếu không
phải là cả một DÂN TỘC thức tỉnh, tự vượt qua mình mà đi lên!
Đà Lạt, Ngày 19-8-1995
Hà Sĩ Phu
---------------------
Nguồn
: vnthuquan.net
Không có nhận xét nào:
Không cho phép có nhận xét mới.