Thứ
Hai, ngày 14 tháng 10 năm 2013
GIẢI
MÃ TƯỚNG GIÁP
(Phần 1)
(Phần 1)
Lần
đầu tiên Huy Đức đưa ra ánh sáng hai khía cạnh trong đời Đại tướng Võ Nguyên
Giáp giai đoạn sau 1954 mà lâu nay vẫn bị che giấu - che giấu cho đến tận giờ
khắc quan tài ông hạ huyệt. Thứ nhất:
Vai trò quyết định về chiến lược quân sự của vị Bộ trưởng Quốc phòng, Tổng tư
lệnh quân đội trong công cuộc “giải phóng” miền Nam. Thứ hai: Bi kịch của vị
danh tướng cam chịu ba lần bảy lượt những đòn vu cáo, hạ nhục bẩn thỉu của
chính các “đồng chí” mình
Bauxite
Việt Nam
Tướng
Giáp
Huy
Đức
Mưu
lược và quyết liệt không chỉ trong những cuộc chiến quy ước như Điện Biên Phủ,
năm 1946, khi Hồ Chí Minh đi Pháp nhân Hội nghị Fontainebleau, ở Hà Nội, Tướng
Giáp đã cùng với Trường Chinh thanh trừng đối lập gần như triệt để. Nhưng trước
những đối thủ chính trị nhân danh Đảng, tướng Giáp trở nên cam chịu và thụ
động. Có lẽ lòng trung thành với tổ chức và ý thức tuân thủ kỷ luật đã rút đi
thanh gươm trận của ông.
Vụ
án “ Năm Châu - Sáu Sứ ”
Trước Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII,
Đại tướng Võ Nguyên Giáp được Trung ương chỉ định về ứng cử đại biểu đi dự Đại
hội tại Đảng bộ Nghệ Tĩnh. Cuối tháng 4-1991, ông vào Vinh dự họp với Đoàn đại
biểu Tỉnh. Tới nơi thì đã quá trưa. Đợi vị tướng già cơm nước xong, Bí thư Tỉnh
uỷ Nghệ Tĩnh Nguyễn Bá mới trao tận tay bức điện “khẩn tuyệt mật” của Ban Bí
thư do ông Nguyễn Thanh Bình ký. Không được phép họp với Đoàn, Tướng Giáp bị
yêu cầu phải trở ra Hà Nội ngay trong chiều hôm đó.
Năm ấy tướng Giáp đã 80 tuổi. Đoạn đường Vinh
- Hà Nội tuy chỉ hơn 300 km nhưng bụi bặm và dằn xóc. Tướng Giáp trở về phòng,
viết mấy dòng cáo lỗi gửi Đoàn đại biểu Nghệ Tĩnh rồi lại lên xe về Hà Nội, nơi
ông sẽ phải ra trước Hội nghị Trung ương 12, đối diện với những cáo buộc chính
trị mà về sau được gọi là vụ “Năm Châu - Sáu Sứ”.
Tại Hội nghị Trung ương 12, Khoá VI, ông
Nguyễn Đức Tâm, Trưởng Ban Tổ chức, thay mặt Bộ Chính trị báo cáo với Ban Chấp
hành Trung ương một văn bản tuyệt mật nói rằng: Một vụ bè phái vi phạm nguyên
tắc Đảng hòng chi phối vấn đề bố trí nhân sự cấp cao đang diễn ra. Những người
tham gia bao gồm Võ Nguyên Giáp, Trần Văn Trà, cùng một số cán bộ cao cấp khác.
Thứ trưởng Bộ Nội vụ phụ trách an ninh,
Trung tướng Võ Viết Thanh, nhớ lại: “Nghe ông Tâm nói, có cảm giác như đang có một
âm mưu đảo chính để đưa Đại tướng Võ Nguyên Giáp lên làm chủ tịch nước sau đó
thay ông Linh làm Tổng bí thư; đưa Trần Văn Trà lên làm bộ trưởng Bộ Quốc
phòng. Thời gian trước Hội nghị Trung ương 12, ông Trà bị triệu tập ra Hà Nội
và bị giữ lại ở Nhà khách số 8 Chu Văn An. Văn bản tuyệt mật này được phổ biến
tới thường vụ các tỉnh, thành, bằng cách cho đọc nguyên văn nhưng bị cấm sao
chép”.
Tướng Đồng Sỹ Nguyên, Ủy viên Bộ Chính trị
Khoá VI, nói: “Lật đổ là một câu chuyện bịa đặt. Ông Giáp không chỉ là một đại
tướng mà xứng đáng là một đại nguyên soái. Một người không chỉ coi trọng sinh
mạng binh sỹ mà còn đặt danh dự của tổ quốc lên trên. Ông là một người thận
trọng. Nhân vụ Sáu Sứ, họ còn lật lại hồ sơ vụ ‘chống Đảng năm 1967’, đưa ra
tài liệu cũ của Lê Đức Thọ, đây cũng là một vụ án được dựng lên”. Ông Võ Viết
Thanh kể thêm: “Tại hai Hội nghị 12 và 13 của Ban Chấp hành Trung ương, nhiều
vị tướng trong quân đội hết sức bức xúc, đứng lên phát biểu bảo vệ Tướng Giáp.
Cụ Võ Nguyên Giáp cay đắng: Đến một vị tướng đã đánh thắng Điện Biên Phủ mà
người ta vẫn vu cho là con nuôi của mật thám Pháp”.
Gần tới ngày Đại hội, một hôm vào khoảng 9
giờ đêm, Bộ trưởng Nội vụ Mai Chí Thọ triệu tập một cuộc họp kín gồm có các thứ
trưởng: Cao Đăng Chiếm, Phạm Tâm Long, Bùi Thiện Ngộ, Võ Viết Thanh. Ông Mai
Chí Thọ nói: “Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh giao nhiệm vụ cho Bộ Công an làm rõ
sai phạm của anh Giáp và anh Trà để xử lý cả về mặt Đảng và Nhà nước. Bộ chỉ
đạo anh Võ Viết Thanh đảm nhiệm việc này”. Cả bốn vị thứ trưởng nghe đều phân
vân, lo lắng. Ông Võ Viết Thanh nói: “Đề nghị Bộ trưởng trình bày lại với Tổng
bí thư đây là những người có công với nước, nếu có sai thì Uỷ ban Kiểm tra
Trung ương xác minh làm rõ còn khi đã chuyển công an thì phải có dấu hiệu phạm
tội”. Mai Chí Thọ dứt khoát: “Chúng ta phải thực hiện chỉ đạo của Tổng bí thư”.
Ông Võ Viết Thanh nói tiếp: “Nếu phải điều
tra, tôi đề nghị nên giao cho anh Cao Đăng Chiếm hoặc anh Bùi Thiện Ngộ vì hai
anh có kinh nghiệm trong ngành hơn tôi. Tôi không từ chối, nhưng tôi biết bản
báo cáo của đồng chí Nguyễn Đức Tâm lấy nguồn tin từ một số người không tốt
trong Cục II, Bộ Quốc phòng. Tôi cũng biết người đẩy ra vụ này là Đoàn Khuê. Cá
nhân tôi với Cục trưởng Quân báo Tư Văn và Cục phó Vũ Chính có ý kiến khác nhau
trong một số việc như: lợi dụng nghiệp vụ đi buôn lậu; tổ chức cài đặc tình vào
nội bộ… Bây giờ nếu tôi làm vụ này nữa thì rất căng với Cục II”. Mai Chí Thọ
gắt: “Ông phụ trách an ninh, không làm thì ai làm”. Võ Viết Thành đành phải:
“Tôi xin chấp hành”.
Ông Võ Viết Thanh kể: “Tôi bay vào Sài
Gòn. Anh em an ninh đã có đủ tư liệu, vấn đề là tình hình nội bộ rất căng vì có
tác động từ cấp cao. Nhiều người khuyên tôi khi điều tra không nên làm khác báo
cáo của Nguyễn Đức Tâm. Người gần gũi nhất là Thiếu tướng Trần Văn Danh cũng
nói là có người khuyên như vậy. Ông Danh gọi tôi tới, tôi hỏi: ‘Lời khuyên này
xuất phát từ đâu anh Ba?’. Ba Trần, tên thường gọi của tướng Trần Văn Danh,
nói: ‘Ở cấp rất cao’. Tôi nói: ‘Tôi đề nghị anh Ba trả lời họ, tôi đang được
giao một công việc mà tôi không thể nào làm trái đạo đức và pháp luật’. Ba Trần
nghe bắt tay, không ngờ anh chỉ hỏi thế để thăm dò nhưng anh là người ủng hộ
tôi làm đúng”.
Ông Võ Viết Thanh kể tiếp: “Ngày
14-5-1991, tôi ra lệnh bắt khẩn cấp Nguyễn Thị Sứ. Anh em thi hành không bắt
tại nhà vì sợ động mà bắt bí mật, đưa về 258 Nguyễn Trãi. Vừa vào trại, Sáu Sứ
hỏi: ‘Các anh ở phía nào?’. Anh em dằn mặt: ‘Chị không được phép hỏi như thế,
chúng tôi là cơ quan an ninh, yêu cầu chị nói hết’. Sáu Sứ trả lời: ‘Tôi là
người Cục II, yêu cầu được nói chuyện điện thoại với Tư Văn, Vũ Chính’. Anh em
An ninh nói: ‘Chị là người phạm pháp, chị không được phép gặp ai cả’. Trong một
ngày Sáu Sứ khai hết [173]”.
Không hề có một tổ chức nào do cụ Giáp
đứng đầu như báo cáo của Nguyễn Đức Tâm đề cập. Theo ông Võ Viết Thanh, Sáu Sứ
khai bà được Vũ Chính cấp tiền, cấp xe và đi gặp vị tướng nào, nói gì là đều
theo chỉ đạo của Cục II. Thông qua một người tên là Năm Châu, từng công tác
chung với ông Thanh Quảng, nguyên là thư ký của tướng Giáp, Sáu Sứ được đưa tới
nhà Võ Nguyên Giáp cùng một số cựu chiến binh. Hôm Sáu Sứ đến, cụ Giáp đang ăn,
nghe có đoàn Cựu chiến binh, cụ dừng bữa cơm để tiếp. Sáu Sứ mang theo một giỏ
trái cây vào tặng rồi xin cụ Giáp cùng chụp ảnh với Đoàn. Toàn bộ cuộc gặp chỉ có
vậy nhưng Sáu Sứ báo cáo: “Cụ Giáp đã đồng ý với kế hoạch”. Rồi theo ông Võ
Viết Thanh: “Băng ghi âm cuộc nói chuyện của Sáu Sứ ở nhà tướng Giáp nghe không
rõ nhưng Cục II vẫn xào nấu thành một bản báo cáo, theo đó: Đang có một vụ đảo
chính, một vụ bè phái trong Đảng hòng chi phối vấn đề bố trí nhân sự cấp cao
trước Đại hội VII do tướng Võ Nguyên Giáp, Trần Văn Trà cùng một số cán bộ cao
cấp khác tiến hành. Bản báo cáo này trở thành cơ sở để Trưởng Ban Tổ chức
Nguyễn Đức Tâm báo cáo trước Hội nghị Trung ương 12 về tướng Giáp”.
Theo Đại tá Nguyễn Văn Huyên, Chánh Văn
phòng tướng Giáp, từ Hội nghị Trung ương 12 về nhà nghỉ trưa, Tướng Giáp hỏi:
“Cậu có nhớ ai tên là Năm Châu từng ở Nam Bộ ra đây gặp mình không?”. Ông Huyên
nhắc lại sự việc xong, tướng Giáp ăn cơm rồi đi ngủ. Đến cận giờ họp buổi
chiều, ông Huyên vào phòng thấy Tướng Giáp vẫn ngáy khò khò, ông Huyên hỏi:
“Việc đang thế này mà anh cũng ngủ được à?”. Tướng Giáp cười: “Cây ngay không
sợ chết đứng”.
Trong khi đó, ngay sau khi Sáu Sứ bị bắt
vào ngày 15-5-1991, theo ông Võ Viết Thanh: Cục II rúng động, Cục trưởng Tư Văn
đổ bệnh. Trong ngày ông Võ Viết Thanh cầm bản cung của Sáu Sứ bay ra Hà Nội,
17-5-1991, tướng Lê Đức Anh viết một bức thư cực ngắn: “Kính gửi: Bộ Chính trị.
Tôi xin không ứng cử vào Quốc hội khoá IX. Xin cám ơn Bộ Chính trị. Kính! Lê
Đức Anh”. Do căng thẳng, tướng Lê Đức Anh ngay sau đó bị đột quỵ. Bác sỹ Vũ
Bằng Đình, người trực tiếp cấp cứu, nói: “Ông Lê Đức Anh bị xuất huyết dạ dày,
huyết áp tụt xuống bằng 0, hồng cầu chỉ còn một triệu. May mà cấp cứu kịp”.
Theo ông Võ Viết Thanh: “Ra Hà Nội, tôi
làm báo cáo đưa ông Mai Chí Thọ đề nghị Bộ trưởng ký. Ông Mai Chí Thọ nói: ‘Cậu
ký luôn, gửi và trực tiếp báo cáo anh Linh’. Ngay chiều hôm đó, Chánh Văn phòng
Trung ương Hồng Hà xếp lịch gặp Tổng bí thư. Nghe tôi báo cáo xong, ông Linh
không nói gì. Nhưng, sáng hôm sau thì nhận được ‘điện mật’ của Văn phòng yêu
cầu các nơi ngưng phổ biến và gửi trả văn bản do Nguyễn Đức Tâm ký về Văn phòng
Trung ương. Sau đó, Trung ương không có một lời nào nói lại với tướng Giáp, còn
tướng Trần Văn Trà thì vẫn bị giữ lại ở số 8 Chu Văn An”. Theo ông Võ Viết
Thanh: “Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh đã không đưa kết luận về vụ Sáu Sứ ra báo
cáo trước Hội nghị Trung ương và ngay cả các uỷ viên Bộ Chính trị cũng không
mấy ai biết”. Thái độ của Tổng bí thư như một tín hiệu để ngay lập tức ông Võ
Viết Thanh nhận được đòn “đánh dưới thắt lưng” của Cục II.
Theo ông Võ Viết Thanh, ngày 23-6-1991,
khi đại biểu đã được triệu tập về Hà Nội: “Trước phiên họp cuối cùng của Hội nghị
trù bị, Hồng Hà, Chánh Văn phòng Trung ương đưa tôi miếng giấy, ghi: ‘Đề nghị
đồng chí Võ Viết Thanh đến giờ giải lao ra gặp Bộ Chính trị và Ban Bí thư có
việc riêng’. Tôi tới phòng làm việc của Đoàn Chủ tịch Đại hội, thấy Võ Chí
Công, Nguyễn Đức Tâm, Đoàn Khuê, Nguyễn Quyết, Nguyễn Thanh Bình đang chờ. Mặt
Đoàn Khuê hằm hằm, Võ Chí Công và Nguyễn Đức Tâm nói ngắn gọn: ‘Chúng tôi thay
mặt Bộ Chính trị, Ban Bí thư, báo đồng chí hai nội dung. Trước hết, xin chuyển
tới đồng chí nhận xét của Bộ Chính trị: Đồng chí là một cán bộ cao cấp còn trẻ,
công tác tốt, rất có triển vọng, nhưng rất tiếc, chúng tôi vừa nhận được một số
báo cáo tố cáo đồng chí hai việc: Một, ngay sau giải phóng, đồng chí có cho bắt
hai cán bộ tình báo của Bộ Quốc phòng và từ đó hai cán bộ này mất tích; hai,
cái chết của cha mẹ đồng chí là bị ta trừ gian, chứ không phải do địch giết. Vì
vậy, chúng tôi đành phải rút đồng chí ra khỏi danh sách tái cử vào Trung ương
khoá VII”.
Ông Võ Viết Thanh nói: “Tôi hết sức bất
ngờ. Khi nghe xúc phạm đến ba má tôi thì tôi không còn kiềm chế được [174].
Trong cặp tôi lúc đó có một khẩu súng ngắn, tôi đã định kéo khoá, rút súng ra
bắn chết cả ba ông rồi tự sát. Nhưng, tình hình lúc đó, nếu tôi làm thế là tan
Đại hội. Tôi cố nuốt cơn tức giận” [175]. Cho dù giữ mình để bảo vệ Đại hội,
tương lai chính trị của ông Thanh đã coi như khép lại. Ông Võ Viết Thanh nói:
“Nếu tôi cứ nghe lời khuyên, kết luận giống như bản báo cáo của Nguyễn Đức Tâm,
thì tôi sẽ được thăng chức, đề bạt nhưng rồi tôi lại phải dấn vào bước thứ hai
là ra lệnh bắt oan tướng Trà và tướng Giáp. Làm thế, thì lương tâm sẽ giết dần,
giết mòn tôi” [176].
Năm ấy, tướng Giáp vừa tròn 80 tuổi [177].
Ông không nằm trong bất cứ cơ cấu nhân sự nào, vụ “Năm Châu - Sáu Sứ”, nếu
thành, chỉ có thể hạ bệ uy tín của ông trong Đảng. Khi Võ Nguyên Giáp đã là Đại
tướng, Bộ trưởng Quốc phòng, Lê Đức Anh chỉ mới là một cán bộ ở cấp tiểu đoàn.
Sự mặc cảm trước uy danh của tướng Giáp chỉ có thể được tích tụ thông qua hai
người đã cất nhắc Lê Đức Anh: Lê Duẩn và, đặc biệt là, Lê Đức Thọ.
--------------------------------------
GIẢI
MÃ TƯỚNG GIÁP
( Phần 2 )
( Phần 2 )
Mưu
lược và quyết liệt không chỉ trong những cuộc chiến quy ước như Điện Biên Phủ,
năm 1946, khi Hồ Chí Minh đi Pháp nhân Hội nghị Fontainebleau, ở Hà Nội, Tướng
Giáp đã cùng với Trường Chinh thanh trừng đối lập gần như triệt để. Nhưng trước
những đối thủ chính trị nhân danh Đảng, tướng Giáp trở nên cam chịu và thụ động.
Có lẽ lòng trung thành với tổ chức và ý thức tuân thủ kỷ luật đã rút đi thanh
gươm trận của ông.
Vụ
án “ Năm Châu - Sáu Sứ ”
“Cách
mạng miền Nam”
Mối quan hệ giữa Lê Duẩn và Võ Nguyên Giáp
thoạt đầu được mô tả là khá thân thiện. Tướng Giáp kể: “Lúc mới ra Bắc, anh Lê
Duẩn thường tâm sự với tôi những khó khăn trong công việc. Anh đã nhiều lần nói
với tôi, năm 1940 nhờ có chị Thái nên anh thoát khỏi án tử hình” [178].
Câu chuyện về “chị Thái” mà ông Lê Duẩn đề
cập trên đây xảy ra năm 1940, trong phiên toà xử những người lãnh đạo “Nam Kỳ
khởi nghĩa”, ông Lê Duẩn và Nguyễn Thị Minh Khai đứng đối diện trong song sắt
trước toà. Minh Khai viết một bức thư nhỏ, gấp lại rồi ném cho Lê Duẩn, chẳng
may thư rơi xuống gần người lính canh ngục. Nguyễn Thị Quang Thái đứng gần đó,
nhanh chóng nhặt và nuốt ngay lá thư [179].
Khi phân công trong Đảng, Hồ Chí Minh nói:
“Việc quân sự giao cho chú Giáp”. Cụ Hồ cũng đã từng cử Võ Nguyên Giáp sang
Trung Quốc học quân sự. Nhưng trên đường đi, Chiến tranh Thế giới II đưa người Pháp
ở chính quốc vào thế thua, Hồ Chí Minh thấy thời cơ tới nên gọi ông trở lại.
Tướng Giáp vì thế chưa từng qua bất cứ một trường lớp nhà binh nào. Có lẽ, tư
duy quân sự của ông hình thành trong những năm dạy sử.
Ngày 22-12-1944, tại Việt Bắc, Võ Nguyên Giáp
đứng ra thành lập Đội Tuyên truyền Giải phóng quân Việt Nam với ba mươi bốn
chiến sỹ trong đó có ba nữ [180]. Ngay sau khi thành lập, Đội Tuyên truyền Giải
phóng quân đã đánh thắng hai trận ở Nà Ngần và Phai Khắt, thuộc tỉnh Cao Bằng.
Khi Nhật đảo chính Pháp, Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân đã mở rộng hoạt
động quân sự từ Cao Bằng tới Tuyên Quang, Lạng Sơn. Ngày 15-5-1945, tại Chợ
Chu, Thái Nguyên, lực lượng này đã hợp nhất với Cứu Quốc quân, lập ra Việt Nam
Giải phóng quân.
Mãi tới tháng 5-1940, Võ Nguyên Giáp mới
sang Trung Quốc gặp Hồ Chí Minh và tham gia Đảng Cộng sản Đông Dương trong khi
năm 1939 Lê Duẩn đã được bổ sung vào Thường vụ Trung ương Đảng. Tuy nhiên,
trong thời gian Lê Duẩn gần như mờ nhạt ở miền Nam thì Võ Nguyên Giáp đã “lừng
lẫy Điện Biên, chấn động địa cầu”. Theo ông Hoàng Tùng: “Khi mới từ miền Nam
ra, cả Lê Duẩn và Lê Đức Thọ đều không thấy thoải mái khi ngồi cùng tướng
Giáp”. Cho dù lịch sử gắn bó giữa Lê Đức Thọ và Lê Duẩn bắt đầu bằng một cuộc
đụng độ [181]. Kể từ khi Lê Duẩn ra Bắc, Lê Đức Thọ đã đóng một vai trò quan
trọng trong quy trình cán bộ đưa Lê Duẩn đạt đến đỉnh cao quyền lực [182].
Về phía mình, ông Giáp cũng đã rất giữ
gìn, đặc biệt, với ông Lê Duẩn. Năm 1956, Trung ương Đảng thừa nhận sai lầm
trong cải cách ruộng đất, Trường Chinh xin từ chức, Hồ Chí Minh lúc bấy giờ là
Chủ tịch Đảng kiêm thêm chức vụ Tổng bí thư. Theo Đại tướng Võ Nguyễn Giáp, lúc
đó đang là trợ lý về Đảng của Hồ Chí Minh: “Tháng 7-1956, tôi đề nghị Bộ Chính
trị cử anh Ba làm phó Tổng bí thư để dễ làm việc, nhưng anh đã từ chối và nói,
nên chờ đại hội quyết định. Tại hội nghị Bộ Chính trị bàn việc chuẩn bị đại
hội, khi được đề nghị làm trưởng ban chuẩn bị Báo cáo Chính trị, anh cũng từ
chối và nói, ‘đã mười năm không ở miền Bắc, chủ trì chuẩn bị báo cáo e khó
khăn, vì vậy đề nghị hai đồng chí Trường Chinh và Võ Nguyên Giáp tham gia’.
Cuối cùng Bộ Chính trị đề nghị Bác làm trưởng ban, anh Ba làm phó” [183].
Ông Hoàng Tùng, khi đó là chánh Văn phòng
Trung ương Đảng, kể: “Trong khoảng từ tháng 10-1956 đến tháng 7-1957, tôi được
phân công giúp ông Giáp chủ trì hội nghị sửa sai. Khi Bác kiêm Tổng bí thư thay
Trường Chinh, uỷ viên Thường trực Bộ Chính trị Võ Nguyên Giáp được cử giúp Bác
giải quyết các công việc thường vụ”. Thời gian ấy, theo ông Hoàng Tùng, không
khí sinh hoạt trong Bộ Chính trị diễn ra khá tế nhị, người cố gắng che giấu ý
muốn được Hồ Chí Minh chọn trao chức Tổng bí thư, người hoạt động khá rốt ráo
cho tham vọng ấy.
Ông Hoàng Tùng kể: “Lê Đức Thọ gặp không
ít đàn em gợi ý thẳng, ‘giờ đến lượt tao’. Những năm 1945, 1946, thế Lê Đức Thọ
lớn lắm, chỉ sau Hồ Chí Minh, Trường Chinh. Bác cử Lê Đức Thọ vào Nam cũng có ý
không để hai ‘con hổ’ Trường Chinh, Lê Đức Thọ gần nhau. Nhưng khi Bác lấy
phiếu thăm dò, không ai đề cử Lê Đức Thọ cả. Trong bốn ứng cử viên Lê Duẩn,
Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Lê Duẩn cao phiếu hơn hẳn”.
Nhưng, đấy là những gì diễn ra trong năm
1960 tại Đại hội III của Đảng Lao động Việt Nam, sau khi “đường lối cách mạng
miền Nam” ngã ngũ.
Ngày 6-7-1956, hai tuần trước hạn thống
nhất hai miền Nam Bắc theo Hiệp định Geneva, Hồ Chí Minh có thư “gửi đồng bào
cả nước”, chỉ rõ: “Nhiệm vụ thiêng liêng của chúng ta là kiên quyết tiếp tục
đấu tranh thi hành Hiệp định Geneva, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở
độc lập và dân chủ bằng phương pháp hoà bình” [184]. Ngày 9-7-1956, trong một
cuộc mít tinh tổ chức tại Hà Nội, tướng Giáp có bài phát biểu dài diễn giải
tinh thần bức thư ngày 6-7-1956 của Hồ Chí Minh [185], cho rằng: “Chủ trương
của chúng ta là thống nhất nước nhà bằng phương pháp hoà bình, và chúng ta nhận
định rằng trong điều kiện trong nước và thế giới hiện nay, sự nghiệp thống nhất
nước nhà của Việt Nam ta có khả năng hoàn thành bằng phương pháp hoà bình”
[186].
Cũng trong thư đề ngày 6-7-1956, Hồ Chí
Minh còn đưa ra sáng kiến: “Lập lại quan hệ bình thường và quyền tự do đi lại
giữa hai miền, tạo điều kiện cho các đoàn thể chính trị, kinh tế, văn hoá xã
hội ở miền Bắc và miền Nam được liên lạc với nhau. Mở hội nghị hiệp thương gồm
đại biểu của hai miền để bàn về vấn đề tổng tuyển cử tự do nhằm thống nhất nước
nhà trên cơ sở Hiệp nghị Geneva” [187].
Đây không chỉ là quan điểm của tướng Giáp
hay của Hồ Chí Minh mà là sách lược hoà hoãn của phe xã hội chủ nghĩa đứng đầu
là Liên Xô nhằm giải quyết các vấn đề nội bộ sau khi Khrushchev thay thế Stalin
chết ba năm trước đó [188]. Thời gian đó, khi soạn Đề Cương Cách Mạng Miền Nam
ở Sài Gòn, Lê Duẩn cũng cho rằng: “Đường lối tranh đấu của chúng ta cũng không
thể ra ngoài đường lối hoà bình được. Chính đường lối tranh đấu hoà bình ấy mới
tạo được lực lượng chính trị mạnh mẽ để chiến thắng âm mưu gây chiến và chính
sách tàn bạo của Mỹ-Diệm” [189]. Theo ông, thì hoà bình chính là “nguyện vọng
thiết tha của nhân dân miền Nam” [190].
Trong khi tướng Giáp phân tích: “Chúng ta
phải nhớ rằng: thế giới ngày nay chiến tranh có khả năng tránh khỏi nhưng nguy
cơ chiến tranh vẫn tồn tại vì chủ nghĩa đế quốc vẫn tồn tại… đế quốc Mỹ đã vào
miền Nam cho nên nguy cơ chiến tranh vẫn tồn tại ngay trên đất nước ta” [191];
thì quan điểm của ông Lê Duẩn vẫn là: “Việc thống nhất nước Việt Nam ta bằng
phương pháp hoà bình có thể thực hiện được… Không có lý do gì mà gây chiến
tranh… Nhân dân cả hai miền chống lại âm mưu chia xẻ và gây chiến của Mỹ-Diệm,
đi đến hiệp thương, thương lượng giữa hai miền để hoà bình, thống nhất đất
nước” [192].
Tháng 8-1955, Hội nghị Trung ương 8 khẳng
định: “Kẻ thù cụ thể trước mắt của chúng ta hiện nay là đế quốc Mỹ và bè lũ tay
sai”. Hội nghị nhấn mạnh: “Muốn thống nhất nước nhà điều cốt yếu là phải ra sức
bảo vệ miền Bắc đồng thời giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh của nhân dân miền
Nam”. Tháng 6-1956, Bộ Chính trị cũng đã họp và ra nghị quyết xác định nhiệm vụ
cách mạng miền Nam là chống đế quốc Mỹ với phương châm: “Đấu tranh chính trị
không có nghĩa là không dùng hình thức vũ trang tự vệ trong hoàn cảnh nhất
định” [193].
Từ tháng 3-1957, sau Nghị quyết 12 của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng, quân đội miền Bắc bắt đầu “thời kỳ xây dựng chính
quy hiện đại”. Chủ trương “giải trừ quân bị” bắt đầu được thực hiện. Nhiều
tướng lĩnh quân đội đã được chuyển sang làm kinh tế. Ngay cả Đại tướng Nguyễn
Chí Thanh cũng được cử vô Quảng Bình để làm “gió Đại Phong”. Bút Tre đã làm
thơ: “Hoan hô anh Nguyễn Chí Thanh / Anh về phân bắc, phân xanh đầy đồng”.
Ngày 4-6-1957, máy bay chở ông Lê Duẩn đáp
xuống sân bay Gia Lâm sau một hành trình dài. Thời gian đầu, Lê Duẩn “chưa nhận
một chức vụ công khai gì”, ông ở chung nhà khách với ông Phan Văn Đáng, cũng
vừa từ Xứ uỷ Nam Bộ ra. Hai người vẫn thường “qua mặt” bảo vệ, lấy xe đạp đi chơi.
Bảo vệ biết mà không dám ngăn, đành phải tháo van xì hơi và có lần vội quá châm
kim cho thủng lốp. Hai người cũng đã từng chen chúc lấy “vé hạng chót” ở rạp
Hồng Hà, đứng bám cột kèo nhà hát, coi cải lương [194].
Trước khi ông Lê Duẩn ra Hà Nội, đấu tranh
vũ trang đã được những người soạn thảo Nghị quyết 15 coi như là con đường không
thể tránh. Ông Hoàng Tùng kể: “Suốt mùa xuân năm 1957, tôi cùng Trần Quang Huy
đi Đồ Sơn chuẩn bị Đề Cương Cách Mạng Miền Nam. Chúng tôi nêu lên phương hướng:
không thể hoà bình mà phải đương đầu đấu tranh giải phóng Miền Nam”. Tuy nhiên,
ông Hoàng Tùng thừa nhận: “Nhờ có thời gian lăn lộn ở chiến trường, Lê Duẩn là
người phát triển, hoàn chỉnh Nghị quyết 15”.
Theo ông Hoàng Tùng: “Khi ấy, Bộ Chính trị
không có ảo tưởng hoà bình, nhưng phát biểu công khai thì phải thế. Bác cũng
không nghĩ thế, nhưng nếu để lộ ra, Trung Quốc và Liên Xô sẽ rầy rà mình”.
Nhưng, theo ông Hoàng Tùng, khi Lê Duẩn vừa ra Bắc, ông chưa quen với cách mà
các nhà lãnh đạo ở Hà Nội phải đối phó với “hai ông anh” của mình, thấy tranh
cãi về Nghị quyết 15 như thế, đến giờ giải lao, ông nói với tôi: “Hoà bình vui
vẻ rồi, họ muốn miền Nam chết, họ bỏ rồi”. Hoà hoãn không chỉ thể hiện trên
ngôn ngữ như ông Hoàng Tùng nói vì năm 1958, Sư đoàn 332 vẫn bị giải thể, hai
mươi vạn quân thường trực được chuyển đi làm kinh tế [195].
Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết: “Khi từ
miền Nam ra Trung ương, anh [Lê Duẩn] nói, ‘điều vui mừng nhất là biết Trung
ương đã sớm xác định Mỹ là kẻ thù chính’ và ‘ra đây mới thấy hết tình hình khó
khăn phức tạp chưa thể phát động đấu tranh vũ trang ở miền Nam sớm hơn” [196].
Tướng Lê Đức Anh xác nhận, cuối năm 1957, khi gặp Lê Duẩn ở Bộ Quốc phòng, ông
đã nói: “Ra Bắc mới được vài tháng mà tôi thấy tình hình quốc tế, tình hình
trong nước phức tạp quá”.
Trong thời gian chủ trương chưa dứt khoát
đó, hàng vạn đảng viên Cộng sản đã bị bắt, bị giết bởi những chiến dịch tố cộng
của chính quyền Ngô Đình Diệm. Ngược lại, từ đó cho đến năm 1960, “mỗi năm có
khoảng 2.500 quan chức miền Nam Việt Nam bị ám sát” [197]. Trên thực tế, các
hoạt động du kích là chưa bao giờ ngưng cả, nhưng, tới năm 1959 thì hoạt động
này chuyển lên mạnh hơn.
Theo Kissinger, “đến cuối nhiệm kỳ của
Chính quyền Eisenhower, chính quyền Nam Việt Nam đã nhận được từ Mỹ hơn một tỷ
đôla viện trợ; có 1.500 người Mỹ ở miền nam Việt Nam với 692 thành viên nằm
trong nhóm cố vấn quân sự; đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn trở thành một trong những
phái đoàn lớn nhất của Mỹ trên thế giới” [198].
Trận “đánh Mỹ” đầu tiên diễn ra ngày
2-1-1963 ở một ấp chiến đấu cách thị xã Mỹ Tho 14 km có tên là Ấp Bắc [199].
Nhưng cũng trong năm 1963, khi được giao soạn thảo bản báo cáo chính trị cho
Hội nghị Trung ương 9, ông Hoàng Minh Chính [200] vẫn dựa trên lập trường
“chung sống hoà bình” của Khrushchev. Bản báo cáo của ông không được lựa chọn.
Tháng 12-1963, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn triệu tập Hội nghị Trung ương 9, đưa ra
dự thảo nghị quyết về “các vấn đề quốc tế và chống chủ nghĩa xét lại hiện đại”.
Hoàng Minh Chính bảo lưu ý kiến bằng cách phân phát cho một số uỷ viên Trung
ương dự Hội nghị một bài viết của ông có tên Về Chủ Nghĩa Giáo Điều Ở Việt Nam.
Một số uỷ viên Trung ương đã hưởng ứng lập trường này như Bùi Công Trừng, Lê
Liêm, Ung Văn Khiêm [201].
Từ năm 1964, nghị quyết về “các vấn đề
quốc tế và chống chủ nghĩa xét lại hiện đại” đã làm cho khoảng bốn mươi người
đang học và đang công tác ở Liên Xô xin “tị nạn”, trong đó có những người từng
gần gũi với tướng Giáp như Phó Chủ tịch Uỷ ban Hành chính Hà Nội Nguyễn Minh
Cần; Chính uỷ Sư đoàn 308, Phó Chính uỷ Quân khu III, Đại tá Lê Vinh Quốc;
nguyên Tổng Biên tập báo Quân Đội Nhân Dân, Thượng Tá Ðỗ Văn Doãn,…
Sau Hội nghị Trung ương 9, vấn đề của
“cách mạng miền Nam” không còn chịu ảnh hưởng nhiều bởi thái độ của Trung Quốc
hay Liên Xô. Trong Đảng cũng đạt được một đường lối chung: “Xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở miền Bắc và giải phóng miền Nam”. Từ tháng 9-1963, một phó tổng tham
mưu trưởng được đưa vào Nam [202] và ngay trong thời gian ông Lê Duẩn đang chủ
trì Hội nghị Trung ương 9, hàng trăm sỹ quan cấp chiến thuật bắt đầu được đưa
về các trung tâm huấn luyện [203].
Tuy nhiên, ở Hà Nội, theo Cục trưởng Tình
báo Quân đội Lê Trọng Nghĩa: “Đầu năm 1964 khi viết Nghị quyết 9 thành văn, họp
Trung ương vẫn có nhiều ý kiến khác nhau. Vì vậy, Nghị quyết 9 dừng lại ở mức
độ: đánh thắng Mỹ nhưng giữ nó ở mức độ chiến tranh đặc biệt, tránh để chiến
tranh mở rộng ra miền Bắc”.
Những năm đầu thập niên 1960, ở miền Nam,
“Ngô Chí Sĩ” bắt đầu được mô tả như là một “độc tài gia đình trị” [204]. Ngày
24-8-1963, Henry Cabot Lodge, người vừa sang Sài Gòn làm đại sứ nhận được chỉ
thị từ Washington yêu cầu cách chức Nhu và cảnh báo Diệm rằng, nếu ông ta từ
chối, Hoa Kỳ sẽ phải “đối diện với khả năng chính bản thân ông Diệm không thể
được bảo toàn” [205]. Ngày 1-11-1963, các tướng lĩnh Sài Gòn đã đảo chính. Hai
anh em ông Diệm phải chạy trốn vào nhà thờ Cha Tam và sau đó bị bắn chết [206].
Ba tuần sau, ngày 22-11-1963, tại Dallas,
Texas, Tổng thống Kennedy bị ám sát. Vị tổng thống mới, Lyndon Baines Johnson,
bắt đầu coi sự xuất hiện của quân đội chính quy miền Bắc ở miền Nam là “xâm
lược”. Ngày 21-12-1963, Bộ trưởng Quốc phòng McNamara báo với Johnson rằng,
nước Mỹ phải đối mặt với sự lựa chọn: leo thang can thiệp quân sự hoặc để cho
miền Nam sụp đổ.
--------------------------------------
GIẢI MÃ TƯỚNG GIÁP
(Phần 3)
(Phần 3)
Mưu
lược và quyết liệt không chỉ trong những cuộc chiến quy ước như Điện Biên Phủ,
năm 1946, khi Hồ Chí Minh đi Pháp nhân Hội nghị Fontainebleau, ở Hà Nội, Tướng
Giáp đã cùng với Trường Chinh thanh trừng đối lập gần như triệt để. Nhưng trước
những đối thủ chính trị nhân danh Đảng, tướng Giáp trở nên cam chịu và thụ động.
Có lẽ lòng trung thành với tổ chức và ý thức tuân thủ kỷ luật đã rút đi thanh
gươm trận của ông.
Mậu
Thân và tham vọng của Lê Đức Thọ
Cuối năm 1966, khi trả lời phỏng vấn
Harrison Salisbury, phóng viên tờ New York Times, Thủ tướng Phạm Văn Đồng nói
rằng, Hoa Kỳ đúng là “mạnh hơn rất nhiều về quân sự”, nhưng, theo ông: “Cuối
cùng sẽ thất bại vì có nhiều người Việt Nam sẵn sàng hy sinh cho Việt Nam hơn
người Mỹ”.
Sức chịu đựng của nền chính trị Mỹ bắt đầu
bị thách thức khi số lính Mỹ chết ở chiến trường Việt Nam lên tới con số hàng
trăm mỗi tuần. Từ năm 1961 cho tới đầu năm 1968, có 31.000 người Mỹ bị chết và
mất tích ở Việt Nam. Cảnh chết chóc của binh lính và đặc biệt là dân thường
được chiếu mỗi tối trên máy truyền hình bắt đầu có trong phòng ngủ của các gia
đình Mỹ.
Theo mô tả của Henry Kissinger, “McNamara
mong muốn kết thúc chiến tranh một cách tuyệt vọng, và nhiều lần khẩn khoản tôi
moi bất cứ dấu hiệu lờ mờ nào, cho dù là gián tiếp, có thể giúp ông thúc đẩy
công cuộc đi tới một kết cục bằng thương lượng” [211]. Ngày 7-4-1965, Tổng
thống Johnson tuyên bố tại Baltimore: “Mỹ sẵn sàng thương lượng không điều
kiện”. Cuối tháng 12-1965, người Mỹ cử Harriman, một nhà ngoại giao, tới Ba Lan
để nhờ Ba Lan làm trung gian thương lượng với Hà Nội.
Ngày 2-1-1966, J. Mikhalowski, Thứ trưởng
kiêm Tổng thư ký Bộ ngoại giao Ba Lan, tới Hà Nội và thông báo với Thủ tướng
Phạm Văn Đồng và Chủ tịch Hồ Chí Minh: Mỹ rất linh hoạt. Họ sẵn sàng tìm mọi
cách để thương lượng. Mikhalowski nài nỉ: “Cần phải có một sáng kiến. Phải tiến
lại với những ý kiến chứng tỏ chúng ta muốn hoà bình, và qua đó các đồng chí sẽ
tranh thủ được dư luận thế giới về mình” [212]. Nhưng cả Thủ tướng Phạm Văn
Đồng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đều cự tuyệt [213].
Ngày 14-6-1966, một nhà ngoại giao người
Canada được gửi tới Hà Nội, nhưng chuyến đi của ông cũng thất bại. Tiếp đó, ông
Jean Sainteny, người từng ký với Hồ Chí Minh bản Hiệp định Sơ bộ ngày 6-3-1946,
đã được Tổng thống Pháp cử tới Việt Nam.
Ngày 1-7-1966, tại Hà Nội, Sainteny cho
biết: “Mỹ đang tìm một giải pháp để khỏi mất thể diện và chính Việt Nam mới ở
thế thắng. Mỹ đã bị đánh bại. Đối với một nước nhỏ mà làm cho Mỹ không thực
hiện ý đồ là đã ở trong thế thắng rồi” [214]. Rồi Sainteny thuyết phục Phạm Văn
Đồng: “Cần nghĩ đến chiến tranh nhưng cũng cần nghĩ đến hoà bình. Một ngày nào
đó sẽ phải thương lượng” [215].
Đúng lúc ấy, Hồ Chí Minh được mô tả là đã
bước vào phòng, cắt ngang cuộc gặp giữa Sainteny và Phạm Văn Đồng: “Nếu ông có
gặp người Mỹ, ông hãy nói cho họ rằng chúng tôi không sợ Mỹ, chúng tôi sẽ chiến
đấu đến cùng, dù có phải hy sinh tất cả” [216]. Hôm sau, ngày 5-7-1966, trong
cuộc tiếp chính thức, Hồ Chí Minh nói với Sainteny: “Chúng tôi hiểu đế quốc Mỹ.
Chúng tôi biết sức mạnh của họ. Họ có thể san bằng Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định,
Bắc Ninh và các thành phố khác. Điều đó không hề làm yếu quyết tâm chiến đấu
đến cùng của chúng tôi ” [217].
Từ năm 1967, người Mỹ bắt đầu thiết lập
một kênh liên lạc với Việt Nam qua người Pháp. Giữa tháng 7-1967, Henry
Kissinger trở thành người trung gian khởi động tiến trình thương lượng. Cho đến
lúc ấy, người Mỹ không hề biết rằng, ông Lê Duẩn đang có trong tay một kế hoạch
đầy tham vọng mà về sau được các nhà báo Mỹ gọi là “Tet Offensive” và các văn
kiện chính thức của Hà Nội gọi là “Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu
Thân-1968”.
Trong “chiến tranh giải phóng miền Nam”,
cho dù tướng Giáp vẫn là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng tư lệnh, Bí thư Tổng
Quân uỷ, nhưng theo ông Lê Trọng Nghĩa: “Thay vì ông Giáp là người quyết định,
ông Lê Đức Thọ có sáng kiến lập ra Tổ năm người giúp Trung ương chỉ đạo tác
chiến miền Nam gồm: Lê Duẩn, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh, Phạm Hùng và Lê
Đức Thọ. Trong tổ này, ông Giáp chỉ còn một phiếu”.
Chiến dịch Mậu Thân được lên kế hoạch sau
“những cuộc họp liên miên” mà các bên tham gia đã phải “tranh cãi gay gắt”. Đại
tá Lê Trọng Nghĩa, người dự hầu hết những cuộc họp này, nói: “Trong Quân uỷ
xuất hiện hai xu hướng khác nhau: Một xu hướng cho rằng phải đánh bằng quân sự
thì mới giải quyết được cách mạng miền Nam, xu hướng này do Nguyễn Chí Thanh
phát ngôn và phía sau là Lê Duẩn và Lê Đức Thọ. Một xu hướng đồng ý đánh, nhưng
vừa đánh vừa cân nhắc tình hình chính trị, nếu khi nào khả năng chính trị xuất
hiện thì nắm lấy cơ hội đàm phán hoà bình, người đứng đầu xu hướng này là Võ
Nguyên Giáp, Nguyễn Văn Vịnh. Tuy nhiên, tới tháng 6-1967 thì đôi bên đi đến
thống nhất: đánh; một ý đồ chiến lược được hình thành gọi là Kế hoạch 67-68”.
Chiều 5-7-1967, Bộ Chính trị làm cơm tiễn
đưa Nguyễn Chí Thanh trở lại miền Nam, cùng dự có Hồ Chí Minh. Sau bữa cơm,
tướng Thanh có ngồi lại khá lâu với tướng Giáp. Người thân của ông kể lại rằng:
Sau một đêm trằn trọc bên người vợ tại nhà riêng ở số 34 Lý Nam Đế, Đại tướng
Nguyễn Chí Thanh bị choáng mệt. Lúc gần sáng, ông được đưa đi cấp cứu tại Bệnh
viện Quân y 108, nhưng khi vừa được đặt nằm xuống giường bệnh thì từ ông “phát
ra tiếng kêu ‘ặc’ rồi mặt và toàn thân tím ngắt”. Khoảng chín giờ sáng ngày
6-7-1967, Nguyễn Chí Thanh mất với kết luận của bệnh viện là do “nhồi máu cơ
tim”.
Vị tướng đại diện cho xu hướng “giành
chiến thắng hoàn toàn bằng quân sự” vừa ra đi thì có hai sứ giả mang thông điệp
hoà hoãn từ Washington tới: ông Raymond Aubrac và Herbert Marcovich. Aubrac là
người quen cũ của Hồ Chí Minh trong thời kỳ ông tới Paris dự Hội nghị
Fontainebleau [218]. Sự ra đi đột ngột của tướng Thanh cũng làm cho ông Giáp bị
sốc, ngay sau tang lễ Nguyễn Chí Thanh, tướng Giáp được đưa đi Hungary dưỡng
bệnh. Hồ Chí Minh tiếp các sứ giả Washington khi bên mình không còn hai đại
tướng. Ông bắt đầu nói về đàm phán.
Ngày 24-7-1967, “Aubrac cảm thấy có dấu
hiệu mới mẻ” [219] khi gặp Hồ Chí Minh. Thủ tướng Phạm Văn Đồng gần như đã bàn
chi tiết phương thức tiến hành đàm phán [220] với điều kiện Mỹ ngưng ném bom
miền Bắc.
Ngày 25-8-1967, Aubrac và Marcovich chuyển
tới tổng đại diện Việt Nam tại Paris thông điệp thương lượng đầu tiên của Chính
phủ Mỹ gửi Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà: “Hoa Kỳ sẵn sàng chấm dứt ném
bom bắn phá bằng không quân và hải quân ở miền Bắc Việt Nam với sự hiểu biết
rằng việc đó sẽ nhanh chóng đưa tới những cuộc thảo luận có hiệu quả giữa Hoa
Kỳ và Việt Nam Dân chủ Cộng hoà để tiến tới giải quyết những vấn đề đang làm
hai nước chống đối nhau” [221].
Không ai biết rõ thông điệp trên đây của
Washington có được miền Bắc chuyển đến lãnh tụ tối cao hay không. Khi miền Bắc
trả lời thì Hồ Chí Minh đã không còn ở Hà Nội nữa. Theo Đại tá Lê Trọng Nghĩa:
“Ngày 5-9-1967, Hồ Chí Minh được đưa đi nghỉ ở Bắc Kinh. Chúng tôi nhận được
thông báo từ Ban Tổ chức Trung ương của Lê Đức Thọ: Bác mệt, phải đi nghỉ đông,
từ nay, những ai trước trực tiếp làm việc với Bác thì làm việc với đồng chí Lê
Duẩn”.
Ngày 11-9-1967, Mai Văn Bộ trao cho Aubrac
và Marcovich trả lời của Hà Nội: “Thông điệp của Mỹ đã được trao sau một cuộc
leo thang đánh phá Hà Nội và với sự đe doạ liên tục đánh phá Hà Nội. Rõ ràng đó
là một tối hậu thư đối với nhân dân Việt Nam. Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà kiên quyết bác bỏ những đề nghị trên đây của Mỹ” [222]. Một kế hoạch
mang tên San Antonio, theo đó, Mỹ sẽ “chấm dứt hoạt động quân sự chống miền Bắc
Việt Nam - để đổi lấy các cuộc đối thoại, miễn là Hà Nội không lợi dụng việc
ngừng ném bom” [223], vẫn được người Mỹ đưa ra. Ngày 29-9-1967, Johnson đồng ý
“Kế hoạch San Antonio”, nhưng theo Kissinger, Hà Nội đã bác bỏ nó.
Theo ông Trần Việt Phương, thư ký Thủ
tướng Phạm Văn Đồng: “Lê Đức Thọ và Lê Duẩn không thể đưa hai con người đang
nắm quyền và có nhiều uy tín đó đi đâu nếu hai người không đồng ý. Việc Hồ Chí
Minh và Võ Nguyên Giáp đi ra nước ngoài được giải thích là để nghi binh. Để thế
giới tin rằng, miền Bắc không thể triển khai một kế hoạch to nếu hai nhân vật
quan trọng vào bậc nhất đó không có mặt ở Hà Nội”.
Những diễn biến sau đó cho thấy câu chuyện
không đơn giản là một cuộc nghi binh. Đại tá Lê Trọng Nghĩa nói: “Hai mươi ngày
sau khi Nguyễn Chí Thanh mất, ngày 27-7-1967, Hoàng Minh Chính bị bắt. Hơn một
tháng sau khi Hồ Chí Minh được đưa tới Bắc Kinh, ngày 18-10-1967, người thư ký
thân cận nhất của ông là Vũ Đình Huỳnh cũng bị bắt”. Một vụ án được nói là
“Chống Đảng” do Trưởng ban Tổ chức Trung ương Lê Đức Thọ và Bộ trưởng Công an
Trần Quốc Hoàn, trực tiếp chỉ đạo, bắt đầu khởi động.
Cái chết của tướng Nguyễn Chí Thanh không
làm thay đổi quyết tâm dứt điểm chiến trường miền Nam của ông Lê Duẩn. Theo
tướng Giáp: “Anh Thanh mất khi chỉ mới có ý đồ chiến lược đánh vào thành phố
chứ chưa hề có kế hoạch tổng công kích-tổng khởi nghĩa vào dịp Tết Mậu Thân”.
Tuy nhiên, trong khoảng thời gian Võ Nguyên Giáp ở Hungary và Hồ Chí Minh ở Bắc
Kinh, một kế hoạch được đặt tên là “Chiến dịch Quang Trung” được gấp rút xây
dựng.
Hồ Chí Minh được đưa về Hà Nội khi cuộc
Tổng tiến công đã gần kề. Theo ông Vũ Kỳ, thư ký riêng của ông, ngày
21-12-1967, Văn phòng Trung ương điện “mời Bác về dự họp Bộ Chính trị”. Ngày
23-12-1967, chuyên cơ chở Hồ Chí Minh về tới Gia Lâm. Ông Vũ Kỳ viết: “Máy bay
lượn hai vòng vẫn chưa hạ cánh được vì đèn chỉ huy trên sân bay chệch mười lăm
độ. Đồng chí lái giàu kinh nghiệm quyết tâm hạ cánh không theo đèn. Rất may là
an toàn. Các đồng chí Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ ra đón Bác tại sân
bay, đưa Bác về nhà và báo cáo công việc với Bác” [224].
Ngay sau khi khách khứa rút lui, việc đầu
tiên mà Hồ Chí Minh làm là gọi điện tới Quân uỷ Trung ương để hỏi thăm sức khỏe
tướng Giáp. Theo ông Vũ Kỳ, khi nghe Quân uỷ nói Đại tướng đang ở nước ngoài,
Hồ Chí Minh nhắc gửi quà và thiệp cho vợ chồng “chú Văn”. Ông nói: “Nô-en và
Tết dương lịch bên ấy cũng như Tết ta của mình. Tâm lý của những người xa quê
hương rất mong có một món quà của tổ quốc” [225]. Không chỉ hiểu tâm trạng của
vị tướng đang bị đặt ra ngoài thời cuộc, theo Đại tá Lê Trọng Nghĩa: “Hồ Chí
Minh lo cho sự an toàn của tướng Giáp”.
Từ Hungary, ngày 20-9-1967 tướng Giáp gửi
thư cho Đại tá Nguyễn Văn Hiếu: “Cậu Hiếu, bọn mình còn ở lại đây ít hôm nữa.
Chắc Hoàng đã có thư. Rất mong thư nhà. Nhớ liên lạc với anh Thạch, anh Tiến,
khi nào có đoàn sang thì gửi mình”. Theo Đại tá Hiếu, “anh Thạch” và “anh Tiến”
trong bức thư này là Nguyễn Cơ Thạch và Hoàng Văn Tiến, cựu thư ký của tướng
Giáp, lúc đó đang công tác tại Bộ Ngoại giao. Bức thư tướng Giáp cho thấy ông
đã bắt đầu “đói thông tin” và, thay vì được báo cáo qua con đường chính thức,
phải tìm hiểu tình hình trong nước qua những người tin cẩn.
Ngày 11-11-1967, tướng Giáp gửi cho Đại tá
Nguyễn Văn Hiếu lá thư thứ hai từ Hungary: “Hiếu, đã nhận được thư của Hiếu gửi
cho đoàn, sau đó nhận được thư dài hơn viết từ trước. Sức khỏe tôi khá hồi phục
nhưng chưa khỏi hẳn. Hoàng sẽ nói rõ. Hiếu xem, lúc về sẽ bố trí ăn ở làm việc
thế nào để có thể chuẩn bị trước. Thăm các cậu ở báo Quân Đội Nhân Dân, Cục I,
Cục II và các cục khác. Nghe nói bài báo của ta có chỗ lộ bí mật [Hoàng Tùng
nói], như thế là không đúng. Ta đã cân nhắc rất kỹ”.
Theo Đại tá Hiếu, đọc lá thư viết trên
postcard này, ông rất lo lắng. Tại sao Tổng tư lệnh đương chức lại băn khoăn
“lúc về sẽ bố trí ăn ở làm việc thế nào?” Đại tá Hiếu kể: “Khi anh Văn ở
Hungary, ở nhà họp Quân uỷ tôi đã nhiều lần phải chịu đựng những lời nói xấu
anh Văn một cách công khai. Trước đó, Quân uỷ rất đoàn kết nhưng, có thời gian
Nguyễn Chí Thanh, Văn Tiến Dũng lôi kéo một số cán bộ cô lập anh Văn. Trước khi
vào Nam, có thời gian Nguyễn Chí Thanh hay bóng gió: ‘Ở nhiều nước Tổng tham
mưu trưởng mới là tướng, còn Bộ trưởng quốc phòng chỉ là anh dân sự’. Khi đó,
Văn Tiến Dũng đã thay Hoàng Văn Thái làm Tổng tham mưu trưởng. Tuy nhiên, khi
Nguyễn Chí Thanh mất, anh Văn vẫn bị sốc vì cuộc chiến cần tướng tài. Xét về
năng lực, Nguyễn Chí Thanh sắc sảo hơn nhiều so với Văn Tiến Dũng”.
Theo Đại tá Nguyễn Văn Huyên, thư ký tướng
Giáp, ông không có điều kiện để xác minh điều mà Trần Quỳnh nói, trước giờ dự
định vào Nam, Nguyễn Chí Thanh nhắc Hồ Chí Minh phải chú ý vấn đề nội bộ.
Nhưng, ông Huyên xác nhận, ở thời điểm ấy cũng có người nói tướng Giáp chống
Đảng và muốn thay tướng Giáp. Theo ông Huyên: “Có người đề nghị, Bác nói: thông
thường ở cấp ấy con người có thể hành động như vậy nhưng chú Giáp thì không,
hơn nữa ta đang đánh Mỹ và đang thắng Mỹ không thể thay Bộ trưởng Quốc phòng”.
Theo ông Vũ Kỳ, ngày 28-12-1967, Bộ Chính
trị họp phiên đặc biệt ngay bên nhà của Hồ Chí Minh, có bản đồ to kê trên bục
trong phòng họp và có nhiều tướng lĩnh đến báo cáo. Tại cuộc họp đó, theo ông
Vũ Kỳ: “Bộ Chính trị đề ra nhiệm vụ… đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên
một bước phát triển cao nhất, bằng phương pháp tổng công kích, tổng khởi nghĩa
để giành thắng lợi quyết định. Chiều tối, sau phiên họp Bộ Chính trị kéo dài và
căng thẳng, Bác trở về nhà sàn, chân bước chậm rãi, có lẽ có một điều gì đó
khiến Bác chưa thật an tâm. Cuộc họp hôm nay Bác chủ trì, ngồi ở ghế đầu bàn, đồng
chí Lê Duẩn báo cáo toàn bộ vấn đề và quán xuyến việc thảo luận” [226].
Ngày 1-1-1968, sau khi thăm một số nơi bị
máy bay bắn phá ở Hà Nội, vào lúc 2 giờ 30 chiều, sau khi tiếp “Bộ Chính trị
đến làm việc”, Hồ Chí Minh tiếp tục “sang Bắc Kinh dưỡng bệnh” [227]. Ở Hà Nội,
bàn tay của Lê Đức Thọ bắt đầu siết mạnh hơn.
Tại Tổng Hành dinh, sáng 6-1-1968, Đại tá
Lê Trọng Nghĩa đang họp với Văn Tiến Dũng để làm kế hoạch bảo đảm cho chiến
dịch thì ông Dũng nói: “Anh sang Tổng cục Chính trị gặp Song Hào”. Ông Lê Trọng
Nghĩa kể: “Tôi sang, người tiếp tôi không phải là Song Hào mà là Phạm Ngọc Mậu,
Cục trưởng Tổ chức kiêm phụ trách Bảo vệ Nội bộ. Mậu bảo: ‘Anh để cặp, vũ khí,
bản đồ lại đây rồi đi ngay, có nhiệm vụ Trung ương giao’. Tôi lần lượt tháo ra
khỏi người những thứ bất ly thân, và tôi chỉ phải đi sang một phòng ở gần đó.
Hôm đó, vợ tôi từ nơi tản cư ở Vĩnh Yên về đang chờ tôi về ăn cơm để tối lại về
nơi tản cư tiếp. Nhưng tôi không chỉ bị giữ lại trong ngày, và cũng không chỉ
có một mình. Từ các nhà bên: Lê Minh Nghĩa, phó Văn phòng Quân uỷ, kiêm chánh
Văn phòng Bộ Tổng Tham mưu, Đỗ Đức Kiên, cục trưởng Cục Tác chiến… cũng cùng bị
bắt. Lo lắng cho một chiến dịch sắp bắt đầu, một tuần sau, lấy tư cách là Bí
thư Đảng Quân uỷ Bộ Tổng Tham mưu, tôi viết thư gửi cho Bí thư Tổng Quân uỷ Võ
Nguyên Giáp đặt vấn đề vì sao có việc giữ người này. Một thời gian sau, khi tôi
đã bị di lý đi nơi khác, một Cục phó Cục Bảo vệ tới nơi tôi bị giữ, thông báo:
Anh Giáp đang nghỉ, tất cả những chuyện của các anh và những chuyện trong Quân
uỷ bây giờ thuộc quyền giải quyết của anh Lê Đức Thọ”.
Sau khi “điều Lê Trọng Nghĩa” về trại
giam, Cục trưởng Cục Cán bộ Phạm Ngọc Mậu cho mời Chánh Văn phòng Quân uỷ
Nguyễn Văn Hiếu. Theo ông Hiếu: “Ông Mậu nói: ‘Học viện quân sự đang thiếu
người, anh phải lên thay Hoàng Minh Thảo làm phó giám đốc. Anh nên đi ngay’.
Tôi hiểu là người ta cần tống mình đi. Đến Tam Đảo biết thêm, người ta chỉ thị
cho Học viện là tôi không được tham gia cấp uỷ”. Như vậy, theo Cục trưởng Quân
báo Lê Trọng Nghĩa: “Trước giờ nổ súng, phần lớn tác giả của Kế hoạch Mậu Thân,
kể cả tác giả chính là Cục trưởng Tác chiến Đỗ Đức Kiên, đều bị loại ra khỏi
vòng chiến đấu”.
Để đảm bảo hoàn toàn bí mật, chỉ trước khi
nổ súng một tuần, Lê Duẩn mới triệu tập các uỷ viên Trung ương về Kim Bôi họp
Hội nghị Trung ương lần 14. Tại hội nghị, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn thông báo với
Trung ương rằng trong cuộc họp quan trọng này “có nhiều đồng chí vắng mặt”. Bí
thư Lê Duẩn nói: “Trước hết, tôi xin báo cáo với các đồng chí, lần này hội nghị
Trung ương chúng ta họp, có một số đồng chí Trung ương bị ốm không đến được, có
một số đồng chí bận việc không đến được. Trong Bộ Chính trị cũng có đồng chí
bận việc không đến được, một số đồng chí sẽ đến, mai có đồng chí Thọ [Lê Đức
Thọ], đồng chí Dũng [Văn Tiến Dũng] sẽ đến báo cáo” [228].
Sau Hội nghị Trung ương 14, chiều
20-1-1968, Lê Đức Thọ có đến Bắc Kinh để “báo cáo Bác Hồ”. Tướng Giáp nhớ lại:
“Sắp nổ súng thì Bác cũng đang ở Bắc Kinh. Bác điện cho tôi: chú thu xếp về
càng sớm, càng tốt”. Từ Hungary, tướng Giáp bay tới Bắc Kinh. Theo ông Vũ Kỳ,
sáng 25-1-1968, Hồ Chí Minh gặp riêng Võ Nguyên Giáp. Trong khi, cả “Cha già
Dân tộc” và “Anh cả của Quân đội” vẫn đang “an trí” ở Bắc Kinh thì những binh
đoàn chủ lực miền Bắc bí mật áp sát các đô thị miền Nam. “Ngày 29 tháng Chạp
ta”, vào lúc sáu giờ chiều, Hồ Chí Minh “nhận được điện của Bộ Chính trị và
Trung ương chúc mừng Bác Hồ năm mới” [229].
Cái đêm mà cả miền Nam chìm trong khói lửa
của Tổng tiến công ấy, Hồ Chí Minh đang ở Bắc Kinh, “trong căn phòng vắng” chỉ
có ông và thư ký Vũ Kỳ, “Bác” mỉm cười nghe một em bé hát “Bé bé bồng bông… em
đi sơ tán, mai về phố đông” và lời chúc Tết của chính mình :
“Xuân
này hơn hẳn mấy xuân qua
Thắng
lợi tin vui khắp mọi nhà
Nam
Bắc thi đua đánh giặc Mỹ
Tiến
lên !
Toàn
thắng ắt về ta!” [230]
Máy bay Trung Quốc đưa tướng Giáp về tới
Hà Nội ngay trong ngày 29 Tết. Hôm sau ông mới được tướng Vũ Lăng, Cục trưởng
Cục Tác chiến báo cáo “Kế hoạch Tổng công kích, Tổng khởi nghĩa”. Vũ Lăng nói:
“Anh Văn Tiến Dũng bảo bây giờ thì có thể báo cáo toàn bộ với anh Văn”. Tướng
Giáp cố giữ vẻ mặt bình thản để giấu niềm cay đắng. Ông, vị Tổng tư lệnh, đã
không được biết một kế hoạch lớn như vậy cho đến trước khi nổ súng một ngày.
Bốn ngày sau khi Chiến dịch Mậu Thân bắt
đầu, một trong những nhân vật quan trọng nhất của chiến dịch, tướng Nguyễn Văn
Vịnh, bị vô hiệu hoá. Trung tướng Nguyễn Văn Vịnh, uỷ viên Thường trực Tổng
Quân uỷ, được cử vào Trung ương Cục trao đổi Kế hoạch Mậu Thân chỉ mười ngày
sau khi tướng Nguyễn Chí Thanh mất. Tướng Vịnh trở lại Hà Nội vào đầu tháng
1-1968, và chính ông là người báo cáo tình hình chiến trường miền Nam với Quân
uỷ, là người trực tiếp soạn thảo Nghị quyết Trung ương 14.
Theo thư ký riêng của ông, ông Phạm Văn
Hùng: Chiều mồng 5 Tết Mậu Thân, ông Vịnh được Lê Đức Thọ mời tới nhà riêng gặp
vào lúc 15 giờ. Cuộc gặp kéo dài tới chập tối nên ông Hùng không thể chờ. Sáng
hôm sau khi ông Phạm Văn Hùng quay lại nhà riêng và là nơi làm việc của ông
Vịnh, 34 Cao Bá Quát, thì được ông Vịnh cho biết, ông bị ngưng tất cả các chức
vụ: uỷ viên dự khuyết Trung ương Đảng, uỷ viên thường trực Quân uỷ, thứ trưởng
Bộ Quốc phòng.
Khoảng ba mươi nhân vật cao cấp đã bị bắt,
phần lớn là những người thân cận với tướng Giáp như: Thiếu tướng Đặng Kim Giang
[231], Cục trưởng Cục II Đại tá Lê Trọng Nghĩa, Chánh Văn phòng Bộ Quốc phòng
Đại tá Lê Minh Nghĩa, Cục trưởng Cục Tác chiến Đại tá Đỗ Đức Kiên, Tổng Biên
tập báo Quân đội Nhân dân Hoàng Thế Dũng, Phó Giám đốc Nhà xuất bản Sự thật,
nguyên tỉnh uỷ viên Tỉnh uỷ Quảng Bình, Nguyễn Kiến Giang, Giám đốc Nhà xuất
bản Sự thật Minh Tranh,… Trừ một số người bị bức cung để phải khai ra “vai trò
cầm đầu của tướng Giáp” lờ mờ nhận thấy mục tiêu chính trị của “vụ án”, phần
đông cho đến tận cuối đời không hiểu vì sao lại có vụ án này [232].
Theo Trần Quỳnh, trợ lý Lê Duẩn thì, thành
phần bị bắt thời gian này gồm: “Những người không tán thành đường lối chống xét
lại của Đảng ta, một số cán bộ cao cấp và trung cấp theo học ở trường Đảng cao
cấp Liên Xô và trường quân sự cao cấp Liên Xô bàn kế hoạch chống lại đường lối
của Đảng. Họ lập một nhóm vận động thành lập một tổ chức lấy việc thay đổi Bộ
Chính trị làm mục tiêu. Họ nhắm vào những người không đồng tình với Nghị quyết
9, trước hết là những sĩ quan cao cấp trong quân đội và những uỷ viên trong Trung
ương”. Các văn bản do Lê Đức Thọ ký cũng nói tới Nghị quyết 9 và quan điểm xét
lại [233]. Nhưng, trên thực tế, Nghị quyết 9 đã được quán triệt từ năm 1964.
Người chủ trương xét lại ở Liên Xô, Khrushchev, khi đó cũng đã bị phế truất và
bị thay bởi Brezhnev. Mặc dù mở đầu vụ án bằng việc bắt Hoàng Minh Chính, hầu
hết những nhân vật quan trọng bị bắt đều là thư ký của Hồ Chí Minh hoặc là
những trợ thủ đắc lực của tướng Giáp.
Theo thư ký của tướng Vịnh, ông Phạm Văn
Hùng [234]: “Ông Vịnh và ông Giang đều đã cùng ở trong Quân uỷ, biết nhau rất
rõ. Ông Vịnh ở nhà 34 Cao Bá Quát, ông Giang ở nhà đối diện. Từ khi ông Giang
ra khỏi quân đội, thỉnh thoảng vẫn qua lại nhà ông Vịnh trò chuyện. Nhiều cán
bộ cao cấp khác thỉnh thoảng vẫn sang nhà ông Vịnh trò chuyện. Ông Vịnh là
người cởi mở nhưng bí mật quân sự thì không bao giờ ông ấy tiết lộ”.
Tướng Giáp trở lại tổng hành dinh khi
không còn những cộng sự ăn ý nhất. “Cuộc Tổng tấn công Mậu Thân” diễn ra ngay
trong đêm 30 Tết, thời điểm hai miền có thoả thuận ngừng bắn để người dân đón
Xuân. Tuy có gặp trục trặc về giờ nổ súng do có sự nhầm lẫn trong việc sử dụng
giờ Hà Nội với giờ Sài Gòn; nhưng, gần như ngay sau Giao thừa, 31-1-1968, lẫn
trong tiếng pháo mừng xuân của thường dân, quân Giải phóng đồng loạt nổ súng
vào 5/6 thành phố, 36/44 thị xã, 36/242 huyện lỵ, 25 sân bay,… Đặc biệt, cuộc
tấn công đã gây rúng động với những gì mà “Việt Cộng” đã làm ở Sài Gòn và Huế.
Tướng Giáp cho rằng: “Tổng tiến công vào
một thời điểm bất ngờ là một chủ trương sáng tạo, nhưng đề ra tổng khởi nghĩa
là không phù hợp” [235]. Tướng Giáp không coi Mậu Thân là chiến thắng vì theo
ông: “Lúc đầu mục tiêu đề ra rất cao, tổng công kích, tổng khởi nghĩa, giành
trọn vẹn chính quyền về tay nhân dân. Giấy bạc đã được in và đã được chuyển vào
Nam [236]. Đồng phục cho công an vào tiếp quản thành phố cũng đã được chuẩn bị.
Đồng chí Đàm Quang Trung ở Quân khu IV đã chuẩn bị một đoàn xe chở quân và quân
trang vào tiếp quản thành phố. Sau này giải thích tổng công kích, tổng khởi
nghĩa xảy ra là một quá trình là không đúng với thực tế” [237].
Trong Chiến dịch Mậu Thân, người Mỹ bắt
được một tài liệu của tỉnh Bình Định gửi cán bộ, nói rằng: “Tổng tấn công 1.000
năm mới có một lần, sẽ quyết định số phận của đất nước, sẽ chấm dứt chiến
tranh”. Chính ông Lê Duẩn, trước chiến dịch cũng tiên đoán: “Cuộc khởi nghĩa ta
nói đây là một giai đoạn cuối cùng”. Ông Duẩn tin, khi quân chủ lực tiến vào
thì Sài Gòn sẽ nổi dậy [238]. Ngay sau khi chiến dịch bắt đầu, Lê Đức Thọ đã đi
thẳng vào miền Nam nắm vai trò phó bí thư Trung ương Cục. Ông ở lại cho tới
tháng 5-1968, khi tình hình chiến trường không còn dấu hiệu chiến thắng nào.
Đợt “tổng tiến công” lần thứ nhất trong
Chiến dịch Mậu Thân đã tạo ra được yếu tố bất ngờ; tuy nhiên, Sài Gòn đã không
“bị sập một cái” và không có “nửa triệu người cầm súng cho ta” như dự đoán của
bí thư Lê Duẩn [239]. Ngay trong đợt đầu, theo Đại tá Tư Chu, chỉ huy Biệt động
Sài Gòn, đã “có những hy sinh, tổn thất lẽ ra có thể tránh được” [240]. Nhưng,
không chỉ tấn công đợt đầu, theo tướng Giáp: “Khi yếu tố bất ngờ đã không còn
vẫn kéo dài tiến công vào đô thị; chậm chuyển hướng về củng cố, mở rộng, giữ
vững vùng giải phóng và làm chủ ở nông thôn do đó đã gây cho ta nhiều khó khăn,
tổn thất rất nặng nề” [241]. Từ chỗ đang giữ thế thượng phong trên chiến trường
miền Nam, quân Giải phóng đã phải trải qua những ngày chống đỡ trong tuyệt vọng
[242].
Nhưng, không phải những căn cứ “Việt Cộng”
bị biến thành đất trắng được đặc tả trên truyền thông Mỹ mà là: cảnh Việt Cộng
bắn nhau trong sân Toà Đại sứ; cảnh những xác lính Mỹ bị giết trên đường phố
Sài Gòn; cảnh tướng Nguyễn Ngọc Loan bắn vào đầu một tù binh trong khi hai tay
anh ta bị trói.
Tuần lễ đầu tiên của tháng 2-1968, số
thương vong của lính Mỹ trong vòng một tuần đạt kỷ lục: 543 chết; 2.547 bị thương.
Ngày 27-2-1968, người dẫn chương trình truyền hình có ảnh hưởng lớn khi đó,
Walter Cronkite, “đã truyền những làn sóng gây sốc cho toàn Nhà Trắng bằng cách
dự báo sự thất bại” [243]. Wall Street, một tờ báo được coi là đang ủng hộ
Washington cũng lo sợ Mậu Thân sẽ “làm hỏng các mục tiêu đáng ca ngợi ban đầu”
[244]. Đài truyền hình NBC ngày 10-3-1968 bình luận: “Đến lúc chúng ta phải xác
định liệu việc phá huỷ Việt Nam để cứu Việt Nam có phải là điều vô nghĩa”
[245].
Ngày 31-3-1968, Tổng thống Johnson quyết
định “ngừng ném bom đơn phương một phần trong khu vực bắc vĩ tuyến 20” và sẽ
“ngừng ném bom hoàn toàn ngay khi các cuộc thương lượng quan trọng bắt đầu”.
Johnson tuyên bố “sẽ không có thêm lực lượng quân sự tăng cường lớn nào được
phái sang Việt Nam”. Cũng trong ngày hôm ấy Johnson nói rằng ông sẽ không ra
tái ứng cử. Phản ứng của Washington là cơ sở để Hà Nội coi Chiến dịch Mậu Thân
là: “Một chiến thắng đã làm lung lay tận gốc ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ,
buộc chúng phải bắt đầu xuống thang”.
--------------------------------------
GIẢI MÃ TƯỚNG GIÁP
(Phần 4)
(Phần 4)
Mưu
lược và quyết liệt không chỉ trong những cuộc chiến quy ước như Điện Biên Phủ,
năm 1946, khi Hồ Chí Minh đi Pháp nhân Hội nghị Fontainebleau, ở Hà Nội, Tướng
Giáp đã cùng với Trường Chinh thanh trừng đối lập gần như triệt để. Nhưng trước
những đối thủ chính trị nhân danh Đảng, tướng Giáp trở nên cam chịu và thụ
động. Có lẽ lòng trung thành với tổ chức và ý thức tuân thủ kỷ luật đã rút đi
thanh gươm trận của ông.
Mậu
Thân và tham vọng của Lê Đức Thọ
Cuối năm 1966, khi trả lời phỏng vấn
Harrison Salisbury, phóng viên tờ New York Times, Thủ tướng Phạm Văn Đồng nói
rằng, Hoa Kỳ đúng là “mạnh hơn rất nhiều về quân sự”, nhưng, theo ông: “Cuối
cùng sẽ thất bại vì có nhiều người Việt Nam sẵn sàng hy sinh cho Việt Nam hơn
người Mỹ”.
Sức chịu đựng của nền chính trị Mỹ bắt đầu
bị thách thức khi số lính Mỹ chết ở chiến trường Việt Nam lên tới con số hàng
trăm mỗi tuần. Từ năm 1961 cho tới đầu năm 1968, có 31.000 người Mỹ bị chết và
mất tích ở Việt Nam. Cảnh chết chóc của binh lính và đặc biệt là dân thường
được chiếu mỗi tối trên máy truyền hình bắt đầu có trong phòng ngủ của các gia
đình Mỹ.
Theo mô tả của Henry Kissinger, “McNamara
mong muốn kết thúc chiến tranh một cách tuyệt vọng, và nhiều lần khẩn khoản tôi
moi bất cứ dấu hiệu lờ mờ nào, cho dù là gián tiếp, có thể giúp ông thúc đẩy
công cuộc đi tới một kết cục bằng thương lượng” [211]. Ngày 7-4-1965, Tổng
thống Johnson tuyên bố tại Baltimore: “Mỹ sẵn sàng thương lượng không điều
kiện”. Cuối tháng 12-1965, người Mỹ cử Harriman, một nhà ngoại giao, tới Ba Lan
để nhờ Ba Lan làm trung gian thương lượng với Hà Nội.
Ngày 2-1-1966, J. Mikhalowski, Thứ trưởng
kiêm Tổng thư ký Bộ ngoại giao Ba Lan, tới Hà Nội và thông báo với Thủ tướng
Phạm Văn Đồng và Chủ tịch Hồ Chí Minh: Mỹ rất linh hoạt. Họ sẵn sàng tìm mọi
cách để thương lượng. Mikhalowski nài nỉ: “Cần phải có một sáng kiến. Phải tiến
lại với những ý kiến chứng tỏ chúng ta muốn hoà bình, và qua đó các đồng chí sẽ
tranh thủ được dư luận thế giới về mình” [212]. Nhưng cả Thủ tướng Phạm Văn
Đồng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đều cự tuyệt [213].
Ngày 14-6-1966, một nhà ngoại giao người
Canada được gửi tới Hà Nội, nhưng chuyến đi của ông cũng thất bại. Tiếp đó, ông
Jean Sainteny, người từng ký với Hồ Chí Minh bản Hiệp định Sơ bộ ngày 6-3-1946,
đã được Tổng thống Pháp cử tới Việt Nam.
Ngày 1-7-1966, tại Hà Nội, Sainteny cho
biết: “Mỹ đang tìm một giải pháp để khỏi mất thể diện và chính Việt Nam mới ở
thế thắng. Mỹ đã bị đánh bại. Đối với một nước nhỏ mà làm cho Mỹ không thực
hiện ý đồ là đã ở trong thế thắng rồi” [214]. Rồi Sainteny thuyết phục Phạm Văn
Đồng: “Cần nghĩ đến chiến tranh nhưng cũng cần nghĩ đến hoà bình. Một ngày nào
đó sẽ phải thương lượng” [215].
Đúng lúc ấy, Hồ Chí Minh được mô tả là đã
bước vào phòng, cắt ngang cuộc gặp giữa Sainteny và Phạm Văn Đồng: “Nếu ông có
gặp người Mỹ, ông hãy nói cho họ rằng chúng tôi không sợ Mỹ, chúng tôi sẽ chiến
đấu đến cùng, dù có phải hy sinh tất cả” [216]. Hôm sau, ngày 5-7-1966, trong
cuộc tiếp chính thức, Hồ Chí Minh nói với Sainteny: “Chúng tôi hiểu đế quốc Mỹ.
Chúng tôi biết sức mạnh của họ. Họ có thể san bằng Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định,
Bắc Ninh và các thành phố khác. Điều đó không hề làm yếu quyết tâm chiến đấu
đến cùng của chúng tôi ” [217].
Từ năm 1967, người Mỹ bắt đầu thiết lập
một kênh liên lạc với Việt Nam qua người Pháp. Giữa tháng 7-1967, Henry
Kissinger trở thành người trung gian khởi động tiến trình thương lượng. Cho đến
lúc ấy, người Mỹ không hề biết rằng, ông Lê Duẩn đang có trong tay một kế hoạch
đầy tham vọng mà về sau được các nhà báo Mỹ gọi là “Tet Offensive” và các văn
kiện chính thức của Hà Nội gọi là “Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu
Thân-1968”.
Trong “chiến tranh giải phóng miền Nam”,
cho dù tướng Giáp vẫn là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng tư lệnh, Bí thư Tổng
Quân uỷ, nhưng theo ông Lê Trọng Nghĩa: “Thay vì ông Giáp là người quyết định,
ông Lê Đức Thọ có sáng kiến lập ra Tổ năm người giúp Trung ương chỉ đạo tác
chiến miền Nam gồm: Lê Duẩn, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh, Phạm Hùng và Lê
Đức Thọ. Trong tổ này, ông Giáp chỉ còn một phiếu”.
Chiến dịch Mậu Thân được lên kế hoạch sau
“những cuộc họp liên miên” mà các bên tham gia đã phải “tranh cãi gay gắt”. Đại
tá Lê Trọng Nghĩa, người dự hầu hết những cuộc họp này, nói: “Trong Quân uỷ
xuất hiện hai xu hướng khác nhau: Một xu hướng cho rằng phải đánh bằng quân sự
thì mới giải quyết được cách mạng miền Nam, xu hướng này do Nguyễn Chí Thanh
phát ngôn và phía sau là Lê Duẩn và Lê Đức Thọ. Một xu hướng đồng ý đánh, nhưng
vừa đánh vừa cân nhắc tình hình chính trị, nếu khi nào khả năng chính trị xuất
hiện thì nắm lấy cơ hội đàm phán hoà bình, người đứng đầu xu hướng này là Võ
Nguyên Giáp, Nguyễn Văn Vịnh. Tuy nhiên, tới tháng 6-1967 thì đôi bên đi đến
thống nhất: đánh; một ý đồ chiến lược được hình thành gọi là Kế hoạch 67-68”.
Chiều 5-7-1967, Bộ Chính trị làm cơm tiễn
đưa Nguyễn Chí Thanh trở lại miền Nam, cùng dự có Hồ Chí Minh. Sau bữa cơm,
tướng Thanh có ngồi lại khá lâu với tướng Giáp. Người thân của ông kể lại rằng:
Sau một đêm trằn trọc bên người vợ tại nhà riêng ở số 34 Lý Nam Đế, Đại tướng
Nguyễn Chí Thanh bị choáng mệt. Lúc gần sáng, ông được đưa đi cấp cứu tại Bệnh
viện Quân y 108, nhưng khi vừa được đặt nằm xuống giường bệnh thì từ ông “phát
ra tiếng kêu ‘ặc’ rồi mặt và toàn thân tím ngắt”. Khoảng chín giờ sáng ngày
6-7-1967, Nguyễn Chí Thanh mất với kết luận của bệnh viện là do “nhồi máu cơ
tim”.
Vị tướng đại diện cho xu hướng “giành
chiến thắng hoàn toàn bằng quân sự” vừa ra đi thì có hai sứ giả mang thông điệp
hoà hoãn từ Washington tới: ông Raymond Aubrac và Herbert Marcovich. Aubrac là
người quen cũ của Hồ Chí Minh trong thời kỳ ông tới Paris dự Hội nghị
Fontainebleau [218]. Sự ra đi đột ngột của tướng Thanh cũng làm cho ông Giáp bị
sốc, ngay sau tang lễ Nguyễn Chí Thanh, tướng Giáp được đưa đi Hungary dưỡng
bệnh. Hồ Chí Minh tiếp các sứ giả Washington khi bên mình không còn hai đại
tướng. Ông bắt đầu nói về đàm phán.
Ngày 24-7-1967, “Aubrac cảm thấy có dấu
hiệu mới mẻ” [219] khi gặp Hồ Chí Minh. Thủ tướng Phạm Văn Đồng gần như đã bàn
chi tiết phương thức tiến hành đàm phán [220] với điều kiện Mỹ ngưng ném bom
miền Bắc.
Ngày 25-8-1967, Aubrac và Marcovich chuyển
tới tổng đại diện Việt Nam tại Paris thông điệp thương lượng đầu tiên của Chính
phủ Mỹ gửi Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà: “Hoa Kỳ sẵn sàng chấm dứt ném
bom bắn phá bằng không quân và hải quân ở miền Bắc Việt Nam với sự hiểu biết
rằng việc đó sẽ nhanh chóng đưa tới những cuộc thảo luận có hiệu quả giữa Hoa
Kỳ và Việt Nam Dân chủ Cộng hoà để tiến tới giải quyết những vấn đề đang làm
hai nước chống đối nhau” [221].
Không ai biết rõ thông điệp trên đây của
Washington có được miền Bắc chuyển đến lãnh tụ tối cao hay không. Khi miền Bắc
trả lời thì Hồ Chí Minh đã không còn ở Hà Nội nữa. Theo Đại tá Lê Trọng Nghĩa:
“Ngày 5-9-1967, Hồ Chí Minh được đưa đi nghỉ ở Bắc Kinh. Chúng tôi nhận được
thông báo từ Ban Tổ chức Trung ương của Lê Đức Thọ: Bác mệt, phải đi nghỉ đông,
từ nay, những ai trước trực tiếp làm việc với Bác thì làm việc với đồng chí Lê
Duẩn”.
Ngày 11-9-1967, Mai Văn Bộ trao cho Aubrac
và Marcovich trả lời của Hà Nội: “Thông điệp của Mỹ đã được trao sau một cuộc
leo thang đánh phá Hà Nội và với sự đe doạ liên tục đánh phá Hà Nội. Rõ ràng đó
là một tối hậu thư đối với nhân dân Việt Nam. Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà kiên quyết bác bỏ những đề nghị trên đây của Mỹ” [222]. Một kế hoạch
mang tên San Antonio, theo đó, Mỹ sẽ “chấm dứt hoạt động quân sự chống miền Bắc
Việt Nam - để đổi lấy các cuộc đối thoại, miễn là Hà Nội không lợi dụng việc
ngừng ném bom” [223], vẫn được người Mỹ đưa ra. Ngày 29-9-1967, Johnson đồng ý
“Kế hoạch San Antonio”, nhưng theo Kissinger, Hà Nội đã bác bỏ nó.
Theo ông Trần Việt Phương, thư ký Thủ
tướng Phạm Văn Đồng: “Lê Đức Thọ và Lê Duẩn không thể đưa hai con người đang
nắm quyền và có nhiều uy tín đó đi đâu nếu hai người không đồng ý. Việc Hồ Chí
Minh và Võ Nguyên Giáp đi ra nước ngoài được giải thích là để nghi binh. Để thế
giới tin rằng, miền Bắc không thể triển khai một kế hoạch to nếu hai nhân vật
quan trọng vào bậc nhất đó không có mặt ở Hà Nội”.
Những diễn biến sau đó cho thấy câu chuyện
không đơn giản là một cuộc nghi binh. Đại tá Lê Trọng Nghĩa nói: “Hai mươi ngày
sau khi Nguyễn Chí Thanh mất, ngày 27-7-1967, Hoàng Minh Chính bị bắt. Hơn một
tháng sau khi Hồ Chí Minh được đưa tới Bắc Kinh, ngày 18-10-1967, người thư ký
thân cận nhất của ông là Vũ Đình Huỳnh cũng bị bắt”. Một vụ án được nói là
“Chống Đảng” do Trưởng ban Tổ chức Trung ương Lê Đức Thọ và Bộ trưởng Công an
Trần Quốc Hoàn, trực tiếp chỉ đạo, bắt đầu khởi động.
Cái chết của tướng Nguyễn Chí Thanh không
làm thay đổi quyết tâm dứt điểm chiến trường miền Nam của ông Lê Duẩn. Theo
tướng Giáp: “Anh Thanh mất khi chỉ mới có ý đồ chiến lược đánh vào thành phố
chứ chưa hề có kế hoạch tổng công kích-tổng khởi nghĩa vào dịp Tết Mậu Thân”.
Tuy nhiên, trong khoảng thời gian Võ Nguyên Giáp ở Hungary và Hồ Chí Minh ở Bắc
Kinh, một kế hoạch được đặt tên là “Chiến dịch Quang Trung” được gấp rút xây
dựng.
Hồ Chí Minh được đưa về Hà Nội khi cuộc
Tổng tiến công đã gần kề. Theo ông Vũ Kỳ, thư ký riêng của ông, ngày
21-12-1967, Văn phòng Trung ương điện “mời Bác về dự họp Bộ Chính trị”. Ngày
23-12-1967, chuyên cơ chở Hồ Chí Minh về tới Gia Lâm. Ông Vũ Kỳ viết: “Máy bay
lượn hai vòng vẫn chưa hạ cánh được vì đèn chỉ huy trên sân bay chệch mười lăm
độ. Đồng chí lái giàu kinh nghiệm quyết tâm hạ cánh không theo đèn. Rất may là
an toàn. Các đồng chí Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ ra đón Bác tại sân
bay, đưa Bác về nhà và báo cáo công việc với Bác” [224].
Ngay sau khi khách khứa rút lui, việc đầu
tiên mà Hồ Chí Minh làm là gọi điện tới Quân uỷ Trung ương để hỏi thăm sức khỏe
tướng Giáp. Theo ông Vũ Kỳ, khi nghe Quân uỷ nói Đại tướng đang ở nước ngoài,
Hồ Chí Minh nhắc gửi quà và thiệp cho vợ chồng “chú Văn”. Ông nói: “Nô-en và
Tết dương lịch bên ấy cũng như Tết ta của mình. Tâm lý của những người xa quê
hương rất mong có một món quà của tổ quốc” [225]. Không chỉ hiểu tâm trạng của
vị tướng đang bị đặt ra ngoài thời cuộc, theo Đại tá Lê Trọng Nghĩa: “Hồ Chí
Minh lo cho sự an toàn của tướng Giáp”.
Từ Hungary, ngày 20-9-1967 tướng Giáp gửi
thư cho Đại tá Nguyễn Văn Hiếu: “Cậu Hiếu, bọn mình còn ở lại đây ít hôm nữa.
Chắc Hoàng đã có thư. Rất mong thư nhà. Nhớ liên lạc với anh Thạch, anh Tiến,
khi nào có đoàn sang thì gửi mình”. Theo Đại tá Hiếu, “anh Thạch” và “anh Tiến”
trong bức thư này là Nguyễn Cơ Thạch và Hoàng Văn Tiến, cựu thư ký của tướng
Giáp, lúc đó đang công tác tại Bộ Ngoại giao. Bức thư tướng Giáp cho thấy ông
đã bắt đầu “đói thông tin” và, thay vì được báo cáo qua con đường chính thức,
phải tìm hiểu tình hình trong nước qua những người tin cẩn.
Ngày 11-11-1967, tướng Giáp gửi cho Đại tá
Nguyễn Văn Hiếu lá thư thứ hai từ Hungary: “Hiếu, đã nhận được thư của Hiếu gửi
cho đoàn, sau đó nhận được thư dài hơn viết từ trước. Sức khỏe tôi khá hồi phục
nhưng chưa khỏi hẳn. Hoàng sẽ nói rõ. Hiếu xem, lúc về sẽ bố trí ăn ở làm việc
thế nào để có thể chuẩn bị trước. Thăm các cậu ở báo Quân Đội Nhân Dân, Cục I,
Cục II và các cục khác. Nghe nói bài báo của ta có chỗ lộ bí mật [Hoàng Tùng
nói], như thế là không đúng. Ta đã cân nhắc rất kỹ”.
Theo Đại tá Hiếu, đọc lá thư viết trên
postcard này, ông rất lo lắng. Tại sao Tổng tư lệnh đương chức lại băn khoăn
“lúc về sẽ bố trí ăn ở làm việc thế nào?” Đại tá Hiếu kể: “Khi anh Văn ở
Hungary, ở nhà họp Quân uỷ tôi đã nhiều lần phải chịu đựng những lời nói xấu
anh Văn một cách công khai. Trước đó, Quân uỷ rất đoàn kết nhưng, có thời gian
Nguyễn Chí Thanh, Văn Tiến Dũng lôi kéo một số cán bộ cô lập anh Văn. Trước khi
vào Nam, có thời gian Nguyễn Chí Thanh hay bóng gió: ‘Ở nhiều nước Tổng tham
mưu trưởng mới là tướng, còn Bộ trưởng quốc phòng chỉ là anh dân sự’. Khi đó,
Văn Tiến Dũng đã thay Hoàng Văn Thái làm Tổng tham mưu trưởng. Tuy nhiên, khi
Nguyễn Chí Thanh mất, anh Văn vẫn bị sốc vì cuộc chiến cần tướng tài. Xét về
năng lực, Nguyễn Chí Thanh sắc sảo hơn nhiều so với Văn Tiến Dũng”.
Theo Đại tá Nguyễn Văn Huyên, thư ký tướng
Giáp, ông không có điều kiện để xác minh điều mà Trần Quỳnh nói, trước giờ dự
định vào Nam, Nguyễn Chí Thanh nhắc Hồ Chí Minh phải chú ý vấn đề nội bộ.
Nhưng, ông Huyên xác nhận, ở thời điểm ấy cũng có người nói tướng Giáp chống
Đảng và muốn thay tướng Giáp. Theo ông Huyên: “Có người đề nghị, Bác nói: thông
thường ở cấp ấy con người có thể hành động như vậy nhưng chú Giáp thì không,
hơn nữa ta đang đánh Mỹ và đang thắng Mỹ không thể thay Bộ trưởng Quốc phòng”.
Theo ông Vũ Kỳ, ngày 28-12-1967, Bộ Chính
trị họp phiên đặc biệt ngay bên nhà của Hồ Chí Minh, có bản đồ to kê trên bục
trong phòng họp và có nhiều tướng lĩnh đến báo cáo. Tại cuộc họp đó, theo ông
Vũ Kỳ: “Bộ Chính trị đề ra nhiệm vụ… đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên
một bước phát triển cao nhất, bằng phương pháp tổng công kích, tổng khởi nghĩa
để giành thắng lợi quyết định. Chiều tối, sau phiên họp Bộ Chính trị kéo dài và
căng thẳng, Bác trở về nhà sàn, chân bước chậm rãi, có lẽ có một điều gì đó
khiến Bác chưa thật an tâm. Cuộc họp hôm nay Bác chủ trì, ngồi ở ghế đầu bàn,
đồng chí Lê Duẩn báo cáo toàn bộ vấn đề và quán xuyến việc thảo luận” [226].
Ngày 1-1-1968, sau khi thăm một số nơi bị
máy bay bắn phá ở Hà Nội, vào lúc 2 giờ 30 chiều, sau khi tiếp “Bộ Chính trị
đến làm việc”, Hồ Chí Minh tiếp tục “sang Bắc Kinh dưỡng bệnh” [227]. Ở Hà Nội,
bàn tay của Lê Đức Thọ bắt đầu siết mạnh hơn.
Tại Tổng Hành dinh, sáng 6-1-1968, Đại tá
Lê Trọng Nghĩa đang họp với Văn Tiến Dũng để làm kế hoạch bảo đảm cho chiến
dịch thì ông Dũng nói: “Anh sang Tổng cục Chính trị gặp Song Hào”. Ông Lê Trọng
Nghĩa kể: “Tôi sang, người tiếp tôi không phải là Song Hào mà là Phạm Ngọc Mậu,
Cục trưởng Tổ chức kiêm phụ trách Bảo vệ Nội bộ. Mậu bảo: ‘Anh để cặp, vũ khí,
bản đồ lại đây rồi đi ngay, có nhiệm vụ Trung ương giao’. Tôi lần lượt tháo ra
khỏi người những thứ bất ly thân, và tôi chỉ phải đi sang một phòng ở gần đó.
Hôm đó, vợ tôi từ nơi tản cư ở Vĩnh Yên về đang chờ tôi về ăn cơm để tối lại về
nơi tản cư tiếp. Nhưng tôi không chỉ bị giữ lại trong ngày, và cũng không chỉ
có một mình. Từ các nhà bên: Lê Minh Nghĩa, phó Văn phòng Quân uỷ, kiêm chánh
Văn phòng Bộ Tổng Tham mưu, Đỗ Đức Kiên, cục trưởng Cục Tác chiến… cũng cùng bị
bắt. Lo lắng cho một chiến dịch sắp bắt đầu, một tuần sau, lấy tư cách là Bí
thư Đảng Quân uỷ Bộ Tổng Tham mưu, tôi viết thư gửi cho Bí thư Tổng Quân uỷ Võ
Nguyên Giáp đặt vấn đề vì sao có việc giữ người này. Một thời gian sau, khi tôi
đã bị di lý đi nơi khác, một Cục phó Cục Bảo vệ tới nơi tôi bị giữ, thông báo:
Anh Giáp đang nghỉ, tất cả những chuyện của các anh và những chuyện trong Quân
uỷ bây giờ thuộc quyền giải quyết của anh Lê Đức Thọ”.
Sau khi “điều Lê Trọng Nghĩa” về trại
giam, Cục trưởng Cục Cán bộ Phạm Ngọc Mậu cho mời Chánh Văn phòng Quân uỷ
Nguyễn Văn Hiếu. Theo ông Hiếu: “Ông Mậu nói: ‘Học viện quân sự đang thiếu
người, anh phải lên thay Hoàng Minh Thảo làm phó giám đốc. Anh nên đi ngay’. Tôi
hiểu là người ta cần tống mình đi. Đến Tam Đảo biết thêm, người ta chỉ thị cho
Học viện là tôi không được tham gia cấp uỷ”. Như vậy, theo Cục trưởng Quân báo
Lê Trọng Nghĩa: “Trước giờ nổ súng, phần lớn tác giả của Kế hoạch Mậu Thân, kể
cả tác giả chính là Cục trưởng Tác chiến Đỗ Đức Kiên, đều bị loại ra khỏi vòng
chiến đấu”.
Để đảm bảo hoàn toàn bí mật, chỉ trước khi
nổ súng một tuần, Lê Duẩn mới triệu tập các uỷ viên Trung ương về Kim Bôi họp
Hội nghị Trung ương lần 14. Tại hội nghị, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn thông báo với
Trung ương rằng trong cuộc họp quan trọng này “có nhiều đồng chí vắng mặt”. Bí
thư Lê Duẩn nói: “Trước hết, tôi xin báo cáo với các đồng chí, lần này hội nghị
Trung ương chúng ta họp, có một số đồng chí Trung ương bị ốm không đến được, có
một số đồng chí bận việc không đến được. Trong Bộ Chính trị cũng có đồng chí
bận việc không đến được, một số đồng chí sẽ đến, mai có đồng chí Thọ [Lê Đức
Thọ], đồng chí Dũng [Văn Tiến Dũng] sẽ đến báo cáo” [228].
Sau Hội nghị Trung ương 14, chiều
20-1-1968, Lê Đức Thọ có đến Bắc Kinh để “báo cáo Bác Hồ”. Tướng Giáp nhớ lại:
“Sắp nổ súng thì Bác cũng đang ở Bắc Kinh. Bác điện cho tôi: chú thu xếp về
càng sớm, càng tốt”. Từ Hungary, tướng Giáp bay tới Bắc Kinh. Theo ông Vũ Kỳ,
sáng 25-1-1968, Hồ Chí Minh gặp riêng Võ Nguyên Giáp. Trong khi, cả “Cha già
Dân tộc” và “Anh cả của Quân đội” vẫn đang “an trí” ở Bắc Kinh thì những binh
đoàn chủ lực miền Bắc bí mật áp sát các đô thị miền Nam. “Ngày 29 tháng Chạp
ta”, vào lúc sáu giờ chiều, Hồ Chí Minh “nhận được điện của Bộ Chính trị và
Trung ương chúc mừng Bác Hồ năm mới” [229].
Cái đêm mà cả miền Nam chìm trong khói lửa
của Tổng tiến công ấy, Hồ Chí Minh đang ở Bắc Kinh, “trong căn phòng vắng” chỉ
có ông và thư ký Vũ Kỳ, “Bác” mỉm cười nghe một em bé hát “Bé bé bồng bông… em
đi sơ tán, mai về phố đông” và lời chúc Tết của chính mình :
“Xuân
này hơn hẳn mấy xuân qua
Thắng
lợi tin vui khắp mọi nhà
Nam
Bắc thi đua đánh giặc Mỹ
Tiến
lên !
Toàn
thắng ắt về ta!” [230]
Máy bay Trung Quốc đưa tướng Giáp về tới
Hà Nội ngay trong ngày 29 Tết. Hôm sau ông mới được tướng Vũ Lăng, Cục trưởng
Cục Tác chiến báo cáo “Kế hoạch Tổng công kích, Tổng khởi nghĩa”. Vũ Lăng nói:
“Anh Văn Tiến Dũng bảo bây giờ thì có thể báo cáo toàn bộ với anh Văn”. Tướng
Giáp cố giữ vẻ mặt bình thản để giấu niềm cay đắng. Ông, vị Tổng tư lệnh, đã
không được biết một kế hoạch lớn như vậy cho đến trước khi nổ súng một ngày.
Bốn ngày sau khi Chiến dịch Mậu Thân bắt
đầu, một trong những nhân vật quan trọng nhất của chiến dịch, tướng Nguyễn Văn
Vịnh, bị vô hiệu hoá. Trung tướng Nguyễn Văn Vịnh, uỷ viên Thường trực Tổng
Quân uỷ, được cử vào Trung ương Cục trao đổi Kế hoạch Mậu Thân chỉ mười ngày
sau khi tướng Nguyễn Chí Thanh mất. Tướng Vịnh trở lại Hà Nội vào đầu tháng
1-1968, và chính ông là người báo cáo tình hình chiến trường miền Nam với Quân
uỷ, là người trực tiếp soạn thảo Nghị quyết Trung ương 14.
Theo thư ký riêng của ông, ông Phạm Văn
Hùng: Chiều mồng 5 Tết Mậu Thân, ông Vịnh được Lê Đức Thọ mời tới nhà riêng gặp
vào lúc 15 giờ. Cuộc gặp kéo dài tới chập tối nên ông Hùng không thể chờ. Sáng
hôm sau khi ông Phạm Văn Hùng quay lại nhà riêng và là nơi làm việc của ông
Vịnh, 34 Cao Bá Quát, thì được ông Vịnh cho biết, ông bị ngưng tất cả các chức
vụ: uỷ viên dự khuyết Trung ương Đảng, uỷ viên thường trực Quân uỷ, thứ trưởng
Bộ Quốc phòng.
Khoảng ba mươi nhân vật cao cấp đã bị bắt,
phần lớn là những người thân cận với tướng Giáp như: Thiếu tướng Đặng Kim Giang
[231], Cục trưởng Cục II Đại tá Lê Trọng Nghĩa, Chánh Văn phòng Bộ Quốc phòng
Đại tá Lê Minh Nghĩa, Cục trưởng Cục Tác chiến Đại tá Đỗ Đức Kiên, Tổng Biên
tập báo Quân đội Nhân dân Hoàng Thế Dũng, Phó Giám đốc Nhà xuất bản Sự thật,
nguyên tỉnh uỷ viên Tỉnh uỷ Quảng Bình, Nguyễn Kiến Giang, Giám đốc Nhà xuất
bản Sự thật Minh Tranh,… Trừ một số người bị bức cung để phải khai ra “vai trò
cầm đầu của tướng Giáp” lờ mờ nhận thấy mục tiêu chính trị của “vụ án”, phần
đông cho đến tận cuối đời không hiểu vì sao lại có vụ án này [232].
Theo Trần Quỳnh, trợ lý Lê Duẩn thì, thành
phần bị bắt thời gian này gồm: “Những người không tán thành đường lối chống xét
lại của Đảng ta, một số cán bộ cao cấp và trung cấp theo học ở trường Đảng cao
cấp Liên Xô và trường quân sự cao cấp Liên Xô bàn kế hoạch chống lại đường lối
của Đảng. Họ lập một nhóm vận động thành lập một tổ chức lấy việc thay đổi Bộ
Chính trị làm mục tiêu. Họ nhắm vào những người không đồng tình với Nghị quyết
9, trước hết là những sĩ quan cao cấp trong quân đội và những uỷ viên trong
Trung ương”. Các văn bản do Lê Đức Thọ ký cũng nói tới Nghị quyết 9 và quan điểm
xét lại [233]. Nhưng, trên thực tế, Nghị quyết 9 đã được quán triệt từ năm
1964. Người chủ trương xét lại ở Liên Xô, Khrushchev, khi đó cũng đã bị phế
truất và bị thay bởi Brezhnev. Mặc dù mở đầu vụ án bằng việc bắt Hoàng Minh
Chính, hầu hết những nhân vật quan trọng bị bắt đều là thư ký của Hồ Chí Minh
hoặc là những trợ thủ đắc lực của tướng Giáp.
Theo thư ký của tướng Vịnh, ông Phạm Văn
Hùng [234]: “Ông Vịnh và ông Giang đều đã cùng ở trong Quân uỷ, biết nhau rất
rõ. Ông Vịnh ở nhà 34 Cao Bá Quát, ông Giang ở nhà đối diện. Từ khi ông Giang
ra khỏi quân đội, thỉnh thoảng vẫn qua lại nhà ông Vịnh trò chuyện. Nhiều cán
bộ cao cấp khác thỉnh thoảng vẫn sang nhà ông Vịnh trò chuyện. Ông Vịnh là
người cởi mở nhưng bí mật quân sự thì không bao giờ ông ấy tiết lộ”.
Tướng Giáp trở lại tổng hành dinh khi
không còn những cộng sự ăn ý nhất. “Cuộc Tổng tấn công Mậu Thân” diễn ra ngay
trong đêm 30 Tết, thời điểm hai miền có thoả thuận ngừng bắn để người dân đón
Xuân. Tuy có gặp trục trặc về giờ nổ súng do có sự nhầm lẫn trong việc sử dụng
giờ Hà Nội với giờ Sài Gòn; nhưng, gần như ngay sau Giao thừa, 31-1-1968, lẫn
trong tiếng pháo mừng xuân của thường dân, quân Giải phóng đồng loạt nổ súng
vào 5/6 thành phố, 36/44 thị xã, 36/242 huyện lỵ, 25 sân bay,… Đặc biệt, cuộc tấn
công đã gây rúng động với những gì mà “Việt Cộng” đã làm ở Sài Gòn và Huế.
Tướng Giáp cho rằng: “Tổng tiến công vào
một thời điểm bất ngờ là một chủ trương sáng tạo, nhưng đề ra tổng khởi nghĩa
là không phù hợp” [235]. Tướng Giáp không coi Mậu Thân là chiến thắng vì theo
ông: “Lúc đầu mục tiêu đề ra rất cao, tổng công kích, tổng khởi nghĩa, giành
trọn vẹn chính quyền về tay nhân dân. Giấy bạc đã được in và đã được chuyển vào
Nam [236]. Đồng phục cho công an vào tiếp quản thành phố cũng đã được chuẩn bị.
Đồng chí Đàm Quang Trung ở Quân khu IV đã chuẩn bị một đoàn xe chở quân và quân
trang vào tiếp quản thành phố. Sau này giải thích tổng công kích, tổng khởi
nghĩa xảy ra là một quá trình là không đúng với thực tế” [237].
Trong Chiến dịch Mậu Thân, người Mỹ bắt
được một tài liệu của tỉnh Bình Định gửi cán bộ, nói rằng: “Tổng tấn công 1.000
năm mới có một lần, sẽ quyết định số phận của đất nước, sẽ chấm dứt chiến
tranh”. Chính ông Lê Duẩn, trước chiến dịch cũng tiên đoán: “Cuộc khởi nghĩa ta
nói đây là một giai đoạn cuối cùng”. Ông Duẩn tin, khi quân chủ lực tiến vào
thì Sài Gòn sẽ nổi dậy [238]. Ngay sau khi chiến dịch bắt đầu, Lê Đức Thọ đã đi
thẳng vào miền Nam nắm vai trò phó bí thư Trung ương Cục. Ông ở lại cho tới
tháng 5-1968, khi tình hình chiến trường không còn dấu hiệu chiến thắng nào.
Đợt “tổng tiến công” lần thứ nhất trong
Chiến dịch Mậu Thân đã tạo ra được yếu tố bất ngờ; tuy nhiên, Sài Gòn đã không
“bị sập một cái” và không có “nửa triệu người cầm súng cho ta” như dự đoán của
bí thư Lê Duẩn [239]. Ngay trong đợt đầu, theo Đại tá Tư Chu, chỉ huy Biệt động
Sài Gòn, đã “có những hy sinh, tổn thất lẽ ra có thể tránh được” [240]. Nhưng,
không chỉ tấn công đợt đầu, theo tướng Giáp: “Khi yếu tố bất ngờ đã không còn
vẫn kéo dài tiến công vào đô thị; chậm chuyển hướng về củng cố, mở rộng, giữ
vững vùng giải phóng và làm chủ ở nông thôn do đó đã gây cho ta nhiều khó khăn,
tổn thất rất nặng nề” [241]. Từ chỗ đang giữ thế thượng phong trên chiến trường
miền Nam, quân Giải phóng đã phải trải qua những ngày chống đỡ trong tuyệt vọng
[242].
Nhưng, không phải những căn cứ “Việt Cộng”
bị biến thành đất trắng được đặc tả trên truyền thông Mỹ mà là: cảnh Việt Cộng
bắn nhau trong sân Toà Đại sứ; cảnh những xác lính Mỹ bị giết trên đường phố
Sài Gòn; cảnh tướng Nguyễn Ngọc Loan bắn vào đầu một tù binh trong khi hai tay
anh ta bị trói.
Tuần lễ đầu tiên của tháng 2-1968, số
thương vong của lính Mỹ trong vòng một tuần đạt kỷ lục: 543 chết; 2.547 bị
thương. Ngày 27-2-1968, người dẫn chương trình truyền hình có ảnh hưởng lớn khi
đó, Walter Cronkite, “đã truyền những làn sóng gây sốc cho toàn Nhà Trắng bằng
cách dự báo sự thất bại” [243]. Wall Street, một tờ báo được coi là đang ủng hộ
Washington cũng lo sợ Mậu Thân sẽ “làm hỏng các mục tiêu đáng ca ngợi ban đầu”
[244]. Đài truyền hình NBC ngày 10-3-1968 bình luận: “Đến lúc chúng ta phải xác
định liệu việc phá huỷ Việt Nam để cứu Việt Nam có phải là điều vô nghĩa”
[245].
Ngày 31-3-1968, Tổng thống Johnson quyết
định “ngừng ném bom đơn phương một phần trong khu vực bắc vĩ tuyến 20” và sẽ
“ngừng ném bom hoàn toàn ngay khi các cuộc thương lượng quan trọng bắt đầu”.
Johnson tuyên bố “sẽ không có thêm lực lượng quân sự tăng cường lớn nào được
phái sang Việt Nam”. Cũng trong ngày hôm ấy Johnson nói rằng ông sẽ không ra
tái ứng cử. Phản ứng của Washington là cơ sở để Hà Nội coi Chiến dịch Mậu Thân
là: “Một chiến thắng đã làm lung lay tận gốc ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ,
buộc chúng phải bắt đầu xuống thang”.
--------------------------------------
--------------------------------------
GIẢI MÃ TƯỚNG GIÁP
(Phần 5)
(Phần 5)
Mưu
lược và quyết liệt không chỉ trong những cuộc chiến quy ước như Điện Biên Phủ,
năm 1946, khi Hồ Chí Minh đi Pháp nhân Hội nghị Fontainebleau, ở Hà Nội, Tướng
Giáp đã cùng với Trường Chinh thanh trừng đối lập gần như triệt để. Nhưng trước
những đối thủ chính trị nhân danh Đảng, tướng Giáp trở nên cam chịu và thụ
động. Có lẽ lòng trung thành với tổ chức và ý thức tuân thủ kỷ luật đã rút đi
thanh gươm trận của ông.
“Nghị quyết 21”
Phải mất năm năm. Phải sau khi hàng vạn
sinh linh của cả hai miền đã bị bom đạn nghiền nát suốt gần ba tháng ở Quảng
Trị trong mùa hè năm 1972. Phải sau khi “Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố
khác” bị tàn phá, hàng nghìn người bị chết bởi B52 trong mùa Giáng sinh 1972.
Ngày 27-1-1973, Hiệp định Paris mới được ký kết.
Điều quan trọng nhất mà ông Lê Duẩn chờ
đợi trong hiệp định này là quân Mỹ rút mà quân miền Bắc không rút, thì ở trên
bàn đàm phán, Kissinger đã chấp nhận từ năm 1971. Trên thực tế, ngay trong
những tháng đầu nhậm chức, Nixon đã đơn phương rút quân: từ 545.000 quân năm
1968, xuống còn 27.000 quân, năm 1972. Hiệp định Paris 1973 chỉ giúp cho sự ra
đi của Mỹ có một tên gọi khác [246].
Sau Hiệp định Paris, theo tướng Giáp, ở Hà
Nội: “Có nhiều ý kiến muốn giữ vững hoà bình, thực hiện hoà hợp, tạo thế ổn
định 5-10 năm… Cũng có một kế hoạch sử dụng 3,5 tỷ đôla mà phía Mỹ hứa bồi
thường chiến tranh để làm vốn tích luỹ ban đầu. Ngay ở Tổng hành dinh cũng có ý
kiến không muốn đánh trả e vi phạm hiệp định” [247].
Sáng 27-3-1973, tại phiên họp mở rộng của
Bộ Chính trị, sau khi nghe báo cáo tình hình, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy
Trinh đề nghị “cần tranh thủ tạo thế mạnh cho ta và có đối sách cụ thể với Mỹ”
[248]. Bí thư thứ nhất Lê Duẩn kết luận: “Ta cần tranh thủ xây dựng lực lượng
mọi mặt ở miền Nam, miền Bắc, quy trách nhiệm của Mỹ, buộc đối phương phải thi
hành hiệp định” [249].
Ngày 28-3-1973, khi chủ trì họp Quân uỷ
Trung ương để triển khai Nghị quyết ngày 27-3-1973 của Bộ Chính trị, tướng Giáp
vẫn xác định phương châm tác chiến ở miền Nam là “kết hợp đánh chính quy và du
kích, tác chiến với binh vận, chiến đấu với xây dựng lực lượng, tiêu diệt địch
gắn với giành dân” [250]. Ngày 29-3-1973, Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ ở Sài Gòn làm
lễ cuốn cờ. Tướng Giáp xác định trong Hội nghị Quân uỷ: “Đối tượng tác chiến
lúc này là quân nguỵ” [251]. Ngày 28-3-1973, Bí thư Quân uỷ Võ Nguyên Giáp gửi
điện cho các chiến trường, giải thích: “Tiến công quân sự bằng phản công của ta
là chủ động tiến công, không phòng ngự đơn thuần” [252].
Nhưng, sau Hội nghị Bộ Chính trị ngày
27-3-1973, Tố Hữu cùng các đặc phái viên Nguyễn Thọ Chân, Đinh Đức Thiện, được
cử vào Trung ương Cục phổ biến chủ trương của Bộ Chính trị theo hướng “đấu
tranh chính trị là chủ yếu”, các chiến trường phải tranh thủ thời cơ để “gò
cương vỗ béo” nhằm thực hiện “hoà hợp dân tộc và thi đua hoà bình”. Cùng thời
gian này, tại các cơ quan của Miền, theo ông Lữ Phương, ông Trần Bạch Đằng
triển khai tinh thần một bức “Thư Vào Nam” của Bí thư Lê Duẩn, theo đó, “hoà
hợp, hoà giải dân tộc” là nhiệm vụ ưu tiên của thời kỳ sau hiệp định. Cuối năm
1972, ông Lê Duẩn đã bố trí cán bộ nghiên cứu việc hình thành và tham gia
“chính phủ liên hiệp ba thành phần”. Ông Phan Văn Khải, khi đó là vụ phó ở Uỷ
ban Kế hoạch Nhà nước là một trong những cán bộ được chọn. Đoàn của ông Khải đã
vào Trung ương Cục chỉ vài tuần sau đoàn của ông Tố Hữu.
Sau khi nghe Bí thư Tố Hữu vào truyền đạt
tinh thần thi hành Hiệp định Paris của Bộ Chính trị, Hội nghị Binh vận Miền
tháng 4-1973 triển khai “năm cấm chỉ”: cấm tấn công địch, cấm đánh địch đi càn
quét, cấm bắn pháo vào đồn địch, cấm bao vây đồn bót, cấm xây dựng ấp xã chiến
đấu. Ở Khu IX, ông Võ Văn Kiệt và Thường vụ Khu uỷ ra lệnh Binh vận Khu không
phổ biến chủ trương này của Binh vận Miền.
Ông Võ Văn Kiệt kể, nhận được điện của
Trung ương Cục, ông liền trao đổi ngay với Đại tá Lê Đức Anh và Thường vụ Khu
uỷ, triệu tập các tỉnh đội và đơn vị. Theo ông Kiệt, bản thân các đơn vị khi
nghe nội dung chủ trương này đã cảm thấy rằng, “chắc chắn Khu uỷ sẽ có chỉ đạo
khác”. Trước đó, ngày 2-2-1973, ở Khu IX, ông Võ Văn Kiệt triệu tập Hội nghị
Thường vụ Khu uỷ, “quán triệt” cấp dưới rằng không được “mơ hồ ảo tưởng” về hoà
bình.
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cũng hoàn toàn
không “mơ hồ” khi ngầm triển khai một chiến dịch gọi là “tràn ngập lãnh thổ”
nhằm chiếm 85% đất đai và kiểm soát 95% dân chúng miền Nam bốn mươi lăm giờ
trước khi Hiệp định Paris có hiệu lực. Ngày 3-3-1973, ba mươi tiểu đoàn của
Việt Nam Cộng hoà đã ồ ạt đánh vào Chương Thiện, dự kiến trong bảy ngày sẽ
chiếm xong các mục tiêu, bịt cửa ngõ U Minh. Nhưng, các mũi tiến công đều bị
chặn đứng, Khu IX tổ chức tấn công trên toàn địa bàn Quân khu.
Trước các nhà lãnh đạo Khu uỷ và Quân khu,
ông Kiệt khi ấy vừa trở thành uỷ viên chính thức Trung ương Đảng, tuyên bố:
“Mệnh lệnh tối cao lúc này là phải giữ đất, giữ dân”. Ông Kiệt nhớ lại: “Chưa
có cuộc họp nào mà tất cả các nơi về nhanh thế. Hội nghị chỉ kéo dài một buổi
rồi tất cả lại phấn khởi đòi về ngay để giữ đất”. Nhưng, nhiều nơi cho rằng
“Khu uỷ Tây Nam bộ xé Hiệp định Paris”. Trung ương Cục điện yêu cầu “Khu IX
phải thấy tình hình mới”.
Bộ Tư lệnh Miền phê bình và thông báo toàn
Miền, đồng thời ra lệnh cho Đại tá Anh rút hai trung đoàn chủ lực về phía sau
rèn luyện nếu không sẽ “đưa Đại tá Lê Đức Anh ra Toà án binh”. Đại tá Anh sau
khi trao đổi với ông Kiệt trả lời Bộ Tư lệnh: “Cho phép Quân khu IX thi hành
chủ trương của Thường vụ Khu uỷ”. Ông Võ Văn Kiệt điện cho Trung ương Cục và Bộ
Chính trị: “Nếu không chống địch lấn chiếm, để mất đất, mất dân lúc này là mất
tất cả”.
Sau khi nhận được điện của ông Kiệt, Bí
thư thứ nhất Lê Duẩn cho triệu tập đại diện các khu, đại diện Trung ương Cục,
đại diện Bộ Tư lệnh Miền ra Hà Nội. Ngày 19-4-1973, các đại diện miền Nam, Phó
Bí thư Trung ương Cục Nguyễn Văn Linh, Tư lệnh miền Nam Hoàng Văn Thái, Bí thư
Khu IX Võ Văn Kiệt đã có mặt ở Hà Nội, báo cáo với Bộ Chính trị tại nhà khách
Hồ Tây.
Ông Lê Duẩn có một phương pháp làm việc
được Võ Văn Kiệt gọi là “bỏ túi nghị quyết”. Nghĩa là, khi xuống cơ sở để triển
khai nghị quyết thay vì bắt buộc cơ sở phải chấp hành những gì cấp uỷ đã ban
hành, phải lắng nghe xem, nghị quyết đề ra như vậy đã phù hợp chưa, nếu không
phù hợp thì phải điều chỉnh nghị quyết chứ không phải điều chỉnh cuộc sống. Ông
Kiệt gọi cách là đó là “đưa cuộc sống vào nghị quyết”.
Khi những cán bộ chiến trường như ông Kiệt
ra tới Hà Nội, ông Lê Duẩn yêu cầu các uỷ viên Bộ Chính trị, các bộ, ngành phải
dành đủ thời gian để nghe tình hình từng chiến trường. Ông Duẩn cũng chỉ thị
cho những cán bộ từ chiến trường ra: “Bất cứ uỷ viên trung ương nào cần nghe là
phải báo cáo”. Bản thân ông Lê Duẩn cũng cần tìm kiếm sự nhất trí cao trong
Trung ương. Theo ông Kiệt thì khi ông mới ra Bắc, ông Tố Hữu vẫn còn gặp nhiều
lần để “thuyết phục Khu IX thi hành nghị quyết gò cương vỗ béo”.
Đó là lần đầu tiên ông Võ Văn Kiệt ra Hà
Nội, lần đầu tiên làm việc nhiều với Bộ Quốc phòng, trong đó có Đại tướng Võ
Nguyên Giáp. Tướng Lê Hai chỉ vào “lõm Tây Nam Bộ” trên bản đồ rồi hỏi: “Giữ
được không?”. Ông Kiệt nói: “Sẽ mất nếu rút lui. T3 [253] cũng tuỳ thuộc vào
cái thế chung của chiến trường. Nếu cả chiến trường tiếp tục tiến công, T3 sẽ
giữ được. Nếu chiến trường rút, T3 mất”. Không như các tướng Lê Hai, Văn Tiến
Dũng, bộc lộ khá rõ chính kiến, tướng Giáp nghe rất kỹ và hỏi rất cặn kẽ, nhưng
gần như không bộc lộ quan điểm của ông và của Bộ Chính trị về việc thi hành
Hiệp định. Chỉ một lần, ông nói: “Hoàn toàn ẩn cũng có lợi cho dân, nhưng, đánh
lại như T3 là tích cực”.
Khi ấy ông Võ Văn Kiệt chưa biết, trong vị
thế khó khăn của mình, tướng Giáp phải rất giữ gìn, tuy nhiên không phải tự
nhiên mà ông đánh giá “T3 tích cực”. Từ giữa tháng 4-1973, tướng Giáp đã cho
lập “Tổ Trung tâm” để xây dựng “đề cương kế hoạch chiến lược” mang bí số “305
TG1”. Tổ do một vị tướng tâm phúc của ông phụ trách: Phó Tổng tham mưu trưởng
Lê Trọng Tấn.
Mùa hè năm 1973, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn
cho gọi tướng Lê Hữu Đức lên và trước khi ra về, ông hỏi: “Bộ Tổng Tham mưu
đang làm gì?”. Ông Đức: “Dạ đang dự thảo kế hoạch chiến lược giải phóng miền
Nam”. Lê Duẩn: “Thế tôi nghe được không?”. Theo tướng Đức thì sau khi nghe, Lê
Duẩn lệnh cho cả Tổ Trung tâm sang trình bày kế hoạch cho ông nghe. Buổi chiều,
Lê Trọng Tấn, Vũ Lăng cùng Lê Hữu Đức quay lại trình bày chi tiết. Lê Duẩn nói:
“Tôi đang suy nghĩ như vậy. Hôm nay nghe xong, Tổ Trung tâm lại củng cố suy
nghĩ đó của tôi. Tôi sẽ báo cáo Bộ Chính trị”.
Việc báo ra Bộ Chính trị một “vấn đề tuyệt
mật” đã làm cho các sỹ quan tác chiến lo lắng, tướng Lê Trọng Tấn sau đó đã
phải đi báo cáo xin ý kiến Văn Tiến Dũng và tướng Giáp. Ông Hồ Ngọc Đại, con rể
và là người sống cùng ông Lê Duẩn trong dinh thự số 6 Hoàng Diệu kể: Một lần
khi vừa chạy xe suốt nửa ngày từ Hà Nội xuống Đồ Sơn thì ông Duẩn nhận được
điện thoại của tướng Lê Trọng Tấn đề nghị được báo cáo tình hình cho Tổng bí
thư. Lê Duẩn định kêu tướng Tấn xuống Đồ Sơn nhưng ông Tấn không chịu vì theo
nguyên tắc, bí mật quân sự chỉ có thể được nói trong Tổng hành dinh. Thế là Lê
Duẩn lại phải quay xe về Hà Nội dù khi ấy đường rất xấu [254].
Cũng trong thời gian từ tháng 3 đến tháng
8-1973, khi Trung ương đang nghe các chỉ huy chiến trường báo cáo và xác định
hướng chiến lược sau Hiệp định Paris, ở Khu IX, Quân lực Việt Nam Cộng hoà liên
tiếp mở các trận càn vào Chương Thiện với lực lượng lên tới bảy mươi lăm tiểu
đoàn. Khu IX đã ngăn chặn thành công nỗ lực này của Sài Gòn. Theo tướng Lê Đức
Anh thì Trung đoàn 1, khi ấy do ông Phạm Văn Trà chỉ huy, đã đóng vai trò tích
cực. Tháng 5-1973, khi Bộ Chính trị quyết định họp mở rộng ở Đồ Sơn, theo tướng
Giáp: “Không còn ai nghĩ tới nghỉ ngơi, hoà hoãn nữa” [255].
Ông Võ Văn Kiệt nhớ lại: “Hội nghị Trung
ương 21 không còn phê phán Khu IX và quyết định sửa đổi chủ trương”. Hội nghị
Trung ương 21, khai mạc tháng 6-1973 và thông qua lần cuối vào ngày 4-10-1973,
xác định: con đường cách mạng ở miền Nam là con đường bạo lực”. Tướng Trần Văn
Trà cho rằng: “Nếu như từ năm 1973, chúng ta tin bằng cách này hay cách khác,
Hiệp định Paris sẽ được thi hành giống như chúng ta đã tin hai năm sẽ có tổng
tuyển cử hồi Hiệp định Geneva… thì tình hình đã không như bây giờ” [256]. “Bây
giờ” mà tướng Trà đề cập là “Chiến dịch Hồ Chí Minh”, trận đánh cuối cùng của
Quân Giải phóng.
Khoảng một tháng sau khi ông Lê Đức Anh từ
Hà Nội quay lại Bộ Tư lệnh Miền, Hà Nội công bố quyết định phong quân hàm vượt
cấp lên trung tướng cho hai đại tá: Lê Đức Anh và Đồng Sỹ Nguyên, tư lệnh Bộ
đội Trường Sơn.
Chiến
dịch Hồ Chí Minh
Điều mà Bí thư thứ nhất Lê Duẩn lúc ấy băn
khoăn là người Mỹ sẽ phản ứng thế nào khi vẫn “bạo lực” sau Hiệp định. Có lẽ
như lời một bài hát lúc đó: “Vận nước đã tới rồi”. Ngay trong năm 1973, Nixon
bị cuốn vào vụ bê bối Watergate khiến ông phải từ chức. Ngày 1-9-1974, Gerald
Ford lên thay Richard Nixon. Theo Kissinger, người tiếp tục được Tổng thống
Ford giữ lại làm ngoại trưởng: “Quyết định đầu tiên của tổng thống là phản ứng
như thế nào đối với khoản viện trợ không tương xứng cho Việt Nam” [257].
Ngân sách dành cho Sài Gòn đã giảm từ 2,1
tỷ đôla năm 1973 xuống còn 1,4 tỷ đôla năm 1974 và chỉ còn 700 triệu cho năm
tài khoá 1975. Cho dù mức mà Nixon trước đó đề nghị vẫn là 1,4 tỷ đôla. Theo
“bản ghi nhớ” ngày 12-9-1974, Kissinger chuyển cho Ford thì ngay cả khi Quốc
hội Mỹ chuẩn thuận mức viện trợ quân sự 700 triệu đôla, thì Quân lực Việt Nam
Cộng hoà khó có khả năng kháng cự [258]. Tính tới tháng 9-1974, 26.000 binh sĩ
Việt Nam Cộng hoà đã bị tử trận kể từ khi ký Hiệp định Paris. Thế nhưng, Thượng
viện Mỹ không những không tăng viện trợ theo đề nghị của tổng thống mà còn cắt
đi 300 triệu.
Đầu năm 1974, khi tình hình bắt đầu “nước
sôi lửa bỏng”, trong một chuyến công tác, tướng Giáp bị đau bụng dữ dội rồi
ngất đột ngột. Ông kể, “khi tỉnh lại tôi thấy mình đang nằm trong máy bay trực
thăng cấp cứu” [259]. Do Viện Quân y 108 không chẩn đoán ra bệnh, Bộ Chính trị
quyết định đưa tướng Giáp sang Liên Xô bằng một chuyến chuyên cơ. Tại Moscow có
lúc tim ông đã ngưng đập trong mấy giây và trước khi chấp nhận một cuộc đại phẫu
thuật bệnh sỏi mật, ông đã viết “mấy điều dặn dò để lại”. Tháng 4-1974, sau khi
tướng Giáp hồi phục, Liên Xô đã bố trí một máy bay để đưa ông trở về Hà Nội.
Khi ấy, Văn Tiến Dũng cũng bị ốm phải đưa đi chữa bệnh ở nước ngoài.
Theo tướng Giáp: Mùa hè năm 1974, khi cùng
đi nghỉ ở Đồ Sơn, Lê Duẩn đã bàn với ông một loạt các vấn đề chiến lược và khi
thấy sức khỏe của tướng Giáp đã ổn sau khi mổ sỏi mật ở Liên Xô về, Lê Duẩn nói
với tướng Giáp: “Công việc rất quan trọng, khẩn trương. Anh nắm lấy mà làm”. Ở
Đồ Sơn, tướng Giáp vừa an dưỡng, vừa hoàn thành dự thảo lần thứ sáu “kế hoạch
chiến lược giành thắng lợi ở miền Nam”. Ông vừa đi bộ quanh bán đảo Đồ Sơn, khi
ấy là một khu chỉ dành riêng cho Trung ương, vừa trao đổi với những cán bộ đi
cùng. Tuy nhiên, theo ông, kế hoạch chiến lược được giữ tuyệt mật, ông chỉ đọc
ra cho Đại tá Võ Quang Hồ, cục phó Cục Tác chiến viết từng phần.
Khi Bộ Chính trị bàn “kế hoạch giải phóng
miền Nam”, theo Trung tướng Lê Hữu Đức: Hai hội nghị đầu suôn sẻ, nhưng từ hội
nghị thứ 3 cho đến hội nghị thứ 6, sau khi Lê Duẩn gợi ý thảo luận phương án
tổng khởi nghĩa, tức là dùng chủ lực đánh vào đầu não như hồi Mậu Thân rồi phát
động nhân dân nổi dậy. Bộ Chính trị chuyển sang sôi nổi bàn về phương án tổng
khởi nghĩa. 7/11 uỷ viên Bộ Chính trị ủng hộ ý kiến này của Lê Duẩn. Tướng Giáp
chỉ còn có hai uỷ viên ủng hộ phương án tổng công kích.
Theo tướng Lê Hữu Đức: “Kể từ khi Lê Duẩn
ra Bắc, tướng Giáp thường rất đơn độc, những tướng lĩnh trong Quân uỷ như Văn
Tiến Dũng, Song Hào, Lê Quang Đạo, Trần Quý Hai thường ngả theo ý kiến của ông
Lê Duẩn. Lê Trọng Tấn là một vị tướng tài và trung thành với tướng Giáp nhưng
khi ấy ông chưa là uỷ viên Trung ương”. Tuy nhiên, theo tướng Lê Hữu Đức, “rất
may là Bộ Chính trị đã không buộc thiểu số phục tùng đa số” và tướng Giáp thì
đã kiên trì thuyết phục.
Từ Hội nghị lần thứ 7, Bộ Chính trị bắt
đầu chấp nhận phương án “tổng công kích” của tướng Giáp. Tướng Lê Hữu Đức, thời
gian ấy là cục trưởng Cục Tác chiến, thường xuyên phải làm việc với Lê Duẩn và
trực tiếp ghi chép các ý kiến khác nhau trong Bộ Chính trị, kể: “Anh Lê Duẩn cứ
cằn nhằn tôi: sao Cục Tác chiến không thích tổng khởi nghĩa. Khi phương án
‘tổng công kích’ được chọn rồi, ông lại nói: đã tổng công kích sao không công
kích thẳng vào Sài Gòn mà lại chọn Buôn Mê Thuột?”.
Kế hoạch đánh Buôn Mê Thuột được tướng
Giáp trao đổi với tướng Dũng chi tiết trong một cuộc gặp có mặt tướng Hoàng Văn
Thái ngay trước khi Văn Tiến Dũng vào miền Nam. Theo tướng Giáp: từ giữa năm
1973, Tổ Trung tâm đã chọn hướng chiến lược là Tây Nguyên và trong một buổi làm
việc, tướng Hoàng Minh Thảo cho rằng, khi đã chọn hướng Tây Nguyên thì trước
hết nên đánh Buôn Ma Thuột [260]. Tướng Giáp, tướng Dũng đều nhất trí với lựa
chọn này.
Theo tướng Lê Hữu Đức: “Tháng 1-1975, ngay
sau khi Lê Duẩn tán thành mở đầu cuộc tổng tiến công vào Buôn Mê Thuột tướng
Giáp ra lệnh cho tướng Lê Trọng Tấn: kiên quyết phải làm đường vào sát Buôn Mê
Thuột, phải có xe tăng, pháo lớn mới đánh đòn quyết định được. Khi ta làm chủ
Buôn Mê Thuột, tướng Giáp nói với chúng tôi: tình hình này không loại trừ địch
rút khỏi Tây Nguyên. Hôm đó là ngày 11-3-1975, ngày 26-3-1975, đúng như dự đoán
của anh, Nguỵ rút”.
Sáng 11-3-1975, ngay sau khi có tin tướng
Văn Tiến Dũng làm chủ hoàn toàn Buôn Ma Thuột, bao vây Kon Tum, Pleiku, Bộ
Chính trị và Thường trực Quân uỷ Trung ương nhóm họp, nhất trí đánh giá: “Ta có
khả năng giành thắng lợi to lớn với nhịp độ nhanh hơn dự kiến và đồng ý kế
hoạch tác chiến của Bộ Tổng Tham mưu”. Trong một không khí rất hào hứng, gần
cuối buổi họp, Lê Duẩn nói: “Trước ta dự định hai năm giải phóng miền Nam, nay
tiếp theo Phước Long có Buôn Ma Thuột, ta có thể đẩy mạnh hơn không? Đề nghị Bộ
Chính trị và các anh bên Quân uỷ suy nghĩ xem ta đã có thể chuyển sang tổng
tiến công chiến lược trên toàn miền Nam chưa?”. Theo tướng Lê Hữu Đức: “Anh Văn
là người đầu tiên nhất trí với đề xuất của anh Ba. Tiếp đó, các đồng chí trong
Bộ Chính trị đều tán thành” [261].
Từ ngày 11-3-1975 cho đến khi quân đội Sài
Gòn rút chạy khỏi Tây Nguyên, Đại tướng Võ Nguyên Giáp hầu như làm việc tại Cục
Tác chiến. Ông trực tiếp đọc hết các điện chiến trường gửi về. Cục trưởng Tác
chiến Lê Hữu Đức có trách nhiệm hằng ngày vào lúc 19 giờ, tới nhà riêng ông Lê
Duẩn báo cáo diễn tiến chiến trường và các kế hoạch tác chiến. Với tư cách là
tổng tư lệnh trong chiến dịch, tướng Giáp nắm vấn đề bao quát và đặc biệt liên
hệ chặt chẽ với các tư lệnh chiến trường.
Theo tướng Lê Hữu Đức, sau khi quân đội
Sài Gòn rút chạy khỏi Tây Nguyên, tướng Giáp và Thường trực Quân uỷ nhất trí
nên tác chiến phát triển về phía Đông, bố trí cụ thể sẽ do tướng Văn Tiến Dũng
quyết định. Tướng Lê Hữu Đức nói: “Anh Văn chỉ thị tôi sang báo cáo xin ý kiến
chỉ đạo của anh Ba. Nghe xong, anh Ba tỏ ý phân vân. Từ năm 1972, anh Ba vẫn
muốn tập trung lực lượng chủ lực, để khi có điều kiện, đánh uy hiếp Sài Gòn,
giành thắng lợi quyết định. Ý anh là khi Tây Nguyên giải phóng, việc tiêu diệt
địch và giải phóng các tỉnh ven biển miền Trung nên giao cho Quân khu V, lực
lượng còn lại của Tây Nguyên nên tiến về Lộc Ninh, đánh vào Sài Gòn càng sớm
càng hay. Nhưng, khi ấy các mặt chuẩn bị chiến trường, hiệp đồng tác chiến quy
mô lớn chưa được chuẩn bị. May mà lúc ấy, anh Dũng cũng điện ra đề nghị cho
phát triển về hướng Đông, phù hợp với Quân uỷ Trung ương. Chúng tôi báo cáo lần
nữa và được anh Ba đồng ý” [262].
Nhận được tin, Tư lệnh chiến trường Văn
Tiến Dũng gửi Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp bức điện số 107: “Đêm qua tôi không
ngủ được về ý định của tôi với chỉ thị phải tập trung Sư 10 về. May quá hai
mươi lăm phút sau thì nhận được điện của anh. Tôi mừng quá về sự tâm đầu ý hợp
của lãnh đạo và người ở chiến trường” [263].
Tướng Giáp dự định đi ngay vào Vĩnh Linh.
Trực thăng đã sẵn sàng. Nhưng ông quyết định ở lại vì “tình hình chiến trường
phát triển quá nhanh”, Tổng Tư lệnh không thể rời Tổng Hành dinh. Sau ngày
18-3-1975, khi Bộ Chính trị họp tại Nhà Con Rồng, nhất trí đề nghị của Quân uỷ,
“giải phóng miền Nam trong năm 1975”, tướng Giáp đi vào Ninh Bình, ông quyết
định đưa vào Nam Quân đoàn I, Quân đoàn cuối cùng ở miền Bắc. Khi ấy Quân đoàn
I đang giúp dân đắp đê ở Ninh Bình theo kế hoạch nghi binh, nhận lệnh báo động,
nhanh chóng theo trục Quốc lộ l hành quân vào Nam, chỉ để lại Sư đoàn 308 ở khu
vực Hà Tây làm nhiệm vụ dự bị và bảo vệ Hà Nội.
Trước đó, từ ngày 17-3, tướng Giáp liên
tiếp gửi các “điện” đến Bộ Tư lệnh Trị Thiên và Bộ Tư lệnh Quân đoàn II đôn đốc
đưa lực lượng xuống đồng bằng, chia cắt chiến lược giữa Huế và Đà Nẵng, cho
phép sử dụng xe tăng và pháo lớn để tăng thêm sức đột kích, nâng cao tốc độ tấn
công. Tướng Giáp phê bình tướng Lê Trọng Tấn khi ông định lập kế hoạch trong
vòng năm ngày, trong khi theo tướng Giáp, khả năng quân đội Sài Gòn rút chạy là
cao và tướng Tấn chỉ có ba ngày để giải quyết chiến trường Đà Nẵng.
Ngày 24-3, Bộ Chính trị và Quân uỷ họp, hạ
quyết tâm: “Hành động nhanh chóng táo bạo, bất ngờ đánh cho địch không kịp trở
tay, giải phóng Sài Gòn trước mùa mưa 1975”. Bộ Chính trị cũng thông qua kế
hoạch lập Mặt trận Quảng Đà, lấy mật danh là “Mặt trận 475” do Trung tướng Lê
Trọng Tấn làm tư lệnh, Thượng tướng Chu Huy Mân làm chính uỷ, Trung tá Lê Phi
Long được cử làm Trưởng phòng Tác chiến cánh quân này.
Sáng 25-3, tướng Lê Trọng Tấn nhận những
chỉ thị cuối cùng của tướng Giáp và ngay chiều hôm đó, ông cùng bộ phận chủ yếu
của cơ quan chiến dịch đi máy bay vào sân bay Quảng Bình, sau đó được chuyển
tiếp bằng trực thăng vào Quảng Trị. Bộ Tư lệnh 475 đến vùng núi Tây Huế và
chuyển theo đường 72 ra Động Truồi, định để chỉ huy đánh Huế, Đà Nẵng, nhưng
theo ông Lê Phi Long: “Giữa đường thì được tin quân ta đã giải phóng Huế vào
chiều 25-3”. Không còn phải đánh nhau ở Huế, Quân đoàn I được lệnh quay lại
Quảng Trị, chuyển trục hành quân từ Quốc lộ l sang đường Trường Sơn. Ba vạn
người cùng với l.053 xe pháo các loại, rầm rộ tham gia cuộc hành quân thần tốc,
ngày 16-4 thì vào đến Đồng Xoài.
Thấy tình hình “chắc ăn”, ngay sau Hội
nghị Bộ Chính trị, Lê Đức Thọ “xung phong” vào chiến trường, ông rời Hà Nội vào
ngày 28-3-1975. Như vậy, tại Bộ Chỉ huy Chiến dịch “giải phóng miền Nam” có tới
ba uỷ viên Bộ Chính trị: Lê Đức Thọ, Phạm Hùng và Văn Tiến Dũng. Ngày
14-4-1975, Bộ Chỉ huy Chiến dịch điện ra Hà Nội đề nghị đặt tên chiến dịch: Hồ
Chí Minh. Một tuần trước đó, ngày 7-4, tướng Giáp đã lệnh cho “Cánh quân Duyên
Hải” [264] phải “thần tốc và táo bạo” [265] còn tướng Lê Trọng Tấn thì khi ấy
cũng đã chuẩn bị mọi mặt để thắng trong “trận cuối cùng”.
Theo kế hoạch, ngày 27-4-1975 các hướng sẽ
bắt đầu tiến đánh để ngày 29-4-1975, cả “Năm cánh quân” đồng loạt đánh vào Sài
Gòn. Tuy nhiên, theo tướng Lê Hữu Đức, tối 24-4 [266], Tư lệnh Cánh quân Duyên
Hải, tướng Lê Trọng Tấn đã điện ra xin cho Quân đoàn II và Quân đoàn IV tiến
công vào lúc 17 giờ ngày 26-4, vì nếu ngày 27 mới bắt đầu như các cánh quân
khác thì sẽ không kịp “cùng lúc nổ súng”. Cánh quân duyên hải lúc đó còn phải
vượt qua hai con sông lớn: sông Đồng Nai và sông Sài Gòn.
Đọc bức điện khi đêm đã khuya vì vừa phải
lần lượt đến tận nhà riêng của các vị Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng báo
cáo, nhưng thấy tình hình khẩn cấp, tướng Đức quyết định đánh thức tướng Giáp.
Xem xong bức điện, tướng Giáp đồng ý ngay với tướng Tấn. Tuy nhiên, rất thận
trọng, ông đã cùng với cục trưởng Tác chiến mang bản đồ đến nhà Bí thư thứ nhất
Lê Duẩn.
Sau khi để tướng Đức đọc bức điện của
tướng Tấn xong, Võ Nguyên Giáp nói: “Đề nghị anh Ba cho đánh theo điện báo cáo
của Tấn”. Theo ông Lê Hữu Đức: Anh Ba nói ngay: “Đánh, đánh, cứ đánh ngay anh
ạ! Bây giờ không chờ nhau nữa. Lúc này cánh quân nào thuận lợi thì cứ phát
triển”. Anh Văn hỏi thêm anh Ba: “Điện trả lời ký tên anh chứ?” [267]. Anh Ba
nói: “Không, anh là tổng tư lệnh, cứ ký tên anh thôi”. Sau một thoáng suy nghĩ,
anh Ba nói thêm: “Nếu cần thì để cả tên tôi cũng được, hoặc nói rõ đã trao đổi
với anh Ba và anh Ba hoàn toàn đồng ý” [268]. Cũng trong ngày 24-4, tướng Tấn
cử Trưởng phòng Tác chiến Cánh quân phía Đông Lê Phi Long trực tiếp đến Sở Chỉ
huy Chiến dịch và tướng Dũng cũng đồng ý để Cánh quân phía Đông đánh trước.
Ngày 30-4-1975, 10 giờ 50, Cục II báo cáo
Tổng Hành dinh: “Quân ta đã vào dinh Tổng thống Nguỵ”; 11 giờ 30, cục phó Cơ
yếu mang vào phòng họp bức điện của tướng Lê Trọng Tấn báo cáo, “một đơn vị
thuộc Cánh quân phía Đông đã cắm cờ trên Dinh Độc Lập”. Chiều hôm ấy, tướng
Giáp kể: “Tôi lên xe đi một vòng quanh Hà Nội. Cả một rừng cờ hoa dậy lên tự
lúc nào. Người đi chật phố, chật đường như trẩy hội”.
--------------------------------------
GIẢI MÃ TƯỚNG GIÁP
(Phần 6 và hết)
(Phần 6 và hết)
Theo
Giáo sư Hồ Ngọc Đại, con rể ông Lê Duẩn, một hôm ông Giáp gọi điện thoại kêu
ông Đại tới nhà, ông Đại nói: “Ông Giáp hẹn tôi 13 giờ, nhưng 15 giờ tôi mới
đến. Gặp, ông bảo là đã chờ tôi lâu lắm rồi. Ông khoác vai tôi rồi nói: Đại đưa
hộ thư này trực tiếp tới anh Ba giúp nhé. Té ra chiều hôm đó có cuộc họp bàn về
vấn đề của tướng Giáp. Tối tôi đưa thư cho ba tôi, ông nói: tào lao”. Ông Hồ
Ngọc Đại kể tiếp: “Có lần, tôi sang nhà số 2 Nguyễn Cảnh Chân chúc Tết Lê Đức
Thọ. Tới nơi, tôi thấy ông Giáp cũng vừa đến. Từ trong nhà ra, ông Thọ đi qua
trước mặt mà không thèm chào ông Giáp một câu, bước đến ôm lấy tôi. Có lần ông
Thọ nói ông còn để cái đầu ông Giáp trên cổ là đã may lắm”.
*
Mưu
lược và quyết liệt không chỉ trong những cuộc chiến quy ước như Điện Biên Phủ,
năm 1946, khi Hồ Chí Minh đi Pháp nhân Hội nghị Fontainebleau, ở Hà Nội, Tướng
Giáp đã cùng với Trường Chinh thanh trừng đối lập gần như triệt để. Nhưng trước
những đối thủ chính trị nhân danh Đảng, tướng Giáp trở nên cam chịu và thụ
động. Có lẽ lòng trung thành với tổ chức và ý thức tuân thủ kỷ luật đã rút đi
thanh gươm trận của ông.
“Thống
chế đi đặt vòng”
Tháng 12-1976, tại Đại hội IV, tuy vẫn còn
là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, nhưng theo thứ bậc mới trong Bộ Chính trị, tướng
Giáp bị xếp sau Lê Đức Thọ. Năm 1977, tướng Giáp thôi chức bí thư Quân uỷ Trung
ương, theo Điều lệ mới, chức vụ này sẽ thuộc về Tổng bí thư. Năm 1980, ông phải
giao chức Bộ trưởng Quốc phòng cho Đại tướng Văn Tiến Dũng [269]. Trước Đại hội
Đảng lần thứ V, “Vụ án chống Đảng” tưởng đã khép lại từ năm 1967, lại được ông
Lê Đức Thọ đưa ra bàn trong Bộ Chính trị.
Trong buổi Bộ Chính trị họp nghe “Vụ án
chống Đảng”, theo ông Võ Văn Kiệt [270]: “Anh Thọ cũng đưa ra những thông tin
như Trần Quỳnh [271] kể nhưng anh Giáp bác bỏ. Tuy nhiên, anh Thọ vẫn kết luận.
Bộ Chính trị không có cơ sở gì để quyết khác với những điều anh Thọ nói. Anh Lê
Duẩn không nói gì, anh Phạm Văn Đồng không nói gì. Có thể có những uỷ viên Bộ
Chính trị biết vấn đề anh Giáp nhưng tôi thì không biết”.
Về sau ông Kiệt chất vấn ông Phạm Văn
Đồng: “Anh hiểu anh Giáp, anh có tiếng nói trong Bộ Chính trị, đó là cái gì?”.
Ông Đồng chỉ nói: “Tôi cũng biết uy tín anh Giáp trong dân”, rồi cười. Ông Kiệt
nói: “Uy tín trong dân của một con người là không thể xem thường. Nếu khai thác
được uy tín đó của anh Giáp thì sẽ có lợi cho dân cho nước. Tôi không đồng tình
với cách cư xử của một số anh với anh Giáp. Tôi kính trọng sức kiềm chế của
anh. Đó cũng là bản lĩnh, nghị lực của một nhân vật lớn”.
Theo Giáo sư Hồ Ngọc Đại, con rể ông Lê
Duẩn, một hôm ông Giáp gọi điện thoại kêu ông Đại tới nhà, ông Đại nói: “Ông
Giáp hẹn tôi 13 giờ, nhưng 15 giờ tôi mới đến. Gặp, ông bảo là đã chờ tôi lâu
lắm rồi. Ông khoác vai tôi rồi nói: Đại đưa hộ thư này trực tiếp tới anh Ba
giúp nhé. Té ra chiều hôm đó có cuộc họp bàn về vấn đề của tướng Giáp. Tối tôi
đưa thư cho ba tôi, ông nói: tào lao”. Ông Hồ Ngọc Đại kể tiếp: “Có lần, tôi
sang nhà số 2 Nguyễn Cảnh Chân chúc Tết Lê Đức Thọ. Tới nơi, tôi thấy ông Giáp
cũng vừa đến. Từ trong nhà ra, ông Thọ đi qua trước mặt mà không thèm chào ông
Giáp một câu, bước đến ôm lấy tôi. Có lần ông Thọ nói ông còn để cái đầu ông
Giáp trên cổ là đã may lắm”.
Tại Đại hội V, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Duy
Trinh, Trần Quốc Hoàn, Lê Văn Lương và Nguyễn Văn Linh được đưa ra khỏi Bộ
Chính trị. Ông Hoàng Tùng cho rằng: “Lê Đức Thọ phải đưa cùng lúc năm người ra
khỏi Bộ Chính trị để khỏi mang tiếng nhưng thực chất của việc thay đổi này là
nhằm vào ông Giáp”. Tuy nhiên, theo ông Hoàng Tùng: “Trước đó, cả ông Thọ và
ông Lê Duẩn đều nhiều lần công khai đánh giá thấp khả năng, kể cả khả năng cầm
quân, của tướng Giáp”.
Năm 1983, Đại tướng Võ Nguyên Giáp được
giao kiêm nhiệm chức Chủ tịch Uỷ ban Quốc gia về sinh đẻ có kế hoạch trong khi
Tố Hữu vào Bộ Chính trị giữ chức phó thủ tướng thường trực. Dân gian truyền
nhau : “Nhà thơ làm kinh tế / Thống chế đi đặt vòng”.
Năm 1984, Nhà nước tổ chức nhiều hoạt động
kỷ niệm “30 năm chiến thắng Điện Biên Phủ”, báo chí đăng hàng loạt hồi ký, bài
viết của cả người Việt và người Pháp. Các bài viết đăng trên báo Nhân Dân từ
tháng 3 đến tháng 5-1984, trong khi nói rất kỹ về Henri Navarre và Christian de
Castries, đã không hề nhắc tên Võ Nguyên Giáp, vị tư lệnh chiến dịch đã đánh
bại hai viên tướng Pháp này.
Ngày 7-5-1984, đúng ngày kỷ niệm chiến
thắng, báo Nhân Dân đăng trên trang nhất bức ảnh chụp Hồ Chí Minh, Trường
Chinh, Võ Nguyên Giáp, nhưng thay vì nêu tên từng cá nhân, Nhân Dân chỉ chú
thích: “Bộ Chính trị Trung ương Đảng quyết định chủ trương tác chiến Đông-Xuân
1953-1954”. Các bài viết trên tờ Quân Đội Nhân Dân cũng không có tên “Võ Nguyên
Giáp”.
Theo Đại tá Nguyễn Văn Huyên, khi Đại
tướng Hoàng Văn Thái công bố hồi ký “Điện Biên Phủ- Chiến dịch lịch sử”, đăng
nhiều kỳ trên báo Quân Đội Nhân Dân, trong mấy kỳ đầu, tờ báo này đã tự ý cắt
bỏ tên của tướng Giáp. Khi có sự kiện bắt buộc phải nhắc đến vai trò của ông,
báo Quân Đội Nhân Dân bèn gọi theo chức vụ “tổng tư lệnh” hoặc “bí thư Tổng
Quân uỷ” thay vì gọi “Đại tướng Võ Nguyên Giáp” hoặc “anh Văn” thân mật. Tướng
Hoàng Văn Thái nổi giận đòi ngưng, tên của tướng Giáp thỉnh thoảng mới xuất
hiện trở lại trên tờ Quân Đội Nhân Dân trong hồi ký của ông Hoàng Văn Thái.
Tờ Nhân Dân và Quân Đội Nhân Dân trong hai
ngày 7 và 8-5-1984 đã dành gần như toàn bộ 4 trang A3 để nói về Điện Biên.
Nhưng, trong xã luận, trong các bài diễn văn đã không hề có tên tướng Giáp.
Trên số báo ra ngày 8-5-1985, hai tờ Nhân Dân và Quân Đội Nhân Dân cùng đưa tin
về lễ “Mít tinh trọng thể kỷ niệm lần thứ 30 chiến thắng Điện Biên Phủ” tổ chức
tại Hà Nội vào chiều 7-5, cùng nhắc tới Võ Nguyên Giáp trong danh sách “Đoàn
Chủ tịch cuộc mít tinh”, nhưng chỉ bằng một cái tên trống không - xếp sau Phạm
Hùng, Văn Tiến Dũng, Chu Huy Mân, Nguyễn Hữu Thọ - không “đại tướng” và không
nói gì tới vai trò của ông trong “chiến thắng” mà “cả nước” đang “nức lòng ca
ngợi” ấy [272].
Trong khi đó, báo chí đầu thập niên 1980
lại đăng dồn dập nhiều loạt bài mô tả vai trò của Bí thư Lê Duẩn như là một
“tổng tư lệnh trên thực tế” của cuộc “kháng chiến chống Mỹ”[272]. Trong loạt
bài Thời Thắng Mỹ, Thép Mới dẫn lời Lê Đức Thọ kể chuyện năm 1955, Lê Duẩn đã
tiên tri cuộc chia tay Bắc-Nam sẽ kéo dài hai mươi năm [274]. Cũng trong loạt
bài này, Lê Duẩn được mô tả như là một người đề xuất hầu hết các chủ trương lớn
của Đảng Cộng sản Việt Nam. “Bác là người đầu tiên tán đồng những ý kiến đề
xuất của anh Ba trước Bộ Chính trị, ngay sau khi anh ra Bắc” [275]. Theo Thép
Mới thì: “Sự vĩ đại của Bác Hồ là lắng nghe” anh Ba và sau khi nghe, Bác bảo
với anh: “Chú nói đúng” [276].
Tháng 3-1985, tướng Giáp, lúc này đã không
còn chức bộ trưởng Bộ Quốc phòng, vào Huế dự lễ mừng “10 năm giải phóng”. Cùng
đi với ông có tướng Lê Trọng Tấn, Tổng tham mưu trưởng và tướng Lê Phi Long. Họ
được đón tiếp khá nồng hậu và được bố trí nghỉ tại khu nhà nghỉ xưa kia của Ngô
Đình Cẩn.
Tướng Lê Phi Long kể: “Anh Văn gọi tôi tới
cùng đi dạo chơi quanh vườn và nói: ‘Lâu nay các cậu có nghe người ta nói gì
không?’. Tôi trả lời. Anh bảo: ‘Sao không thấy nói lại! Trong tình hình phức
tạp hiện nay, con người ta có thể bị phân hoá thành ba thái độ: một là thẳng thắn
đấu tranh bảo vệ sự thật, chân lý; hai là trong khi chưa có điều kiện nói ra sự
thật thì ngồi yên kiên trì chờ đợi; ba là cơ hội, xuyên tạc, sẵn sàng đổi trắng
thay đen, bóp méo sự thật. Các cậu có đủ dũng khí thì theo cách một, chưa có
điều kiện thì chọn cách hai, còn cách ba, thì phải tuyệt đối tránh”.
Hôm sau, đoàn của tướng Giáp vào Đà Nẵng
bằng đường bộ. Trên đèo Hải Vân, khác với không khí nồng hậu mà Huế dành cho
Đại tướng, Đà Nẵng chỉ cử một tỉnh uỷ viên trẻ măng, vô danh ra đón, không có
đại diện Quân khu, Tỉnh đội. Tướng Lê Phi Long nhớ lại: “Chúng tôi rất bực
mình, nhưng anh Văn vẫn bình thản”.
Đêm ấy, đoàn nghỉ ở nhà khách Mỹ Khê, sáng
hôm sau, theo chương trình, sẽ đến đặt vòng hoa tại đài liệt sỹ trước khi dự lễ
mừng chiến thắng. Nhưng đợi mãi, không thấy ai phát thư mời và phù hiệu cho
đoàn của “anh Văn”. Các sỹ quan đi cùng hỏi thì được trả lời: “Ai không có giấy
thì coi như không được mời”.
Lễ mừng Chiến thắng Đà Nẵng năm ấy được tổ
chức trọng thể vì có Tổng bí thư Lê Duẩn tới dự. Tướng Lê Phi Long kể: “Chúng
tôi rất băn khoăn, liền xin ý kiến của anh Tấn và anh Văn”. Trong đoàn có ý
kiến đề nghị thôi không dự lễ nữa. Tướng Giáp suy nghĩ rất lâu rồi nhẹ nhàng
nói: “Chúng ta vào đây không phải vì lễ lạt mà còn để viếng những đồng đội,
đồng chí đã ngã xuống trên mảnh đất này. Đã tổ chức viếng thì phải tổ chức
trang trọng, chu đáo theo đúng nghi thức quân đội”.
Lập tức, tướng Lê Trọng Tấn ra lệnh cho Bộ
Tư lệnh Quân khu V tổ chức một lễ viếng riêng có đủ tiêu binh, quân nhạc và
đích thân một vị trong Bộ Tư lệnh phải tháp tùng. Sáng hôm sau, xung quanh đài
liệt sỹ, dân chúng kéo đến rất đông. Những người dân ấy không phải đến vì được
triệu tập mà đến để nhìn tướng Giáp.
Trong lễ “kỷ niệm 10 năm giải phóng miền
Nam” tổ chức tại Hà Nội vào ngày 30-4-1985. Võ Nguyễn Giáp vẫn được ngồi trên
“Đoàn Chủ tịch”, nhưng trong danh sách mà báo Nhân Dân ngày 1-5-1985 đăng, ông
được xếp đứng sau chín người, trong đó có nhiều người từng là cấp dưới của ông
trong chiến tranh như Văn Tiến Dũng, Võ Chí Công, Chu Huy Mân, Đỗ Mười, Nguyễn
Cơ Thạch,… Đây là thứ bậc dựa trên chức vụ trong Đảng mà ông nắm giữ trong thời
điểm 1985. Tên ông chỉ được đặt bên cạnh hai chức danh: uỷ viên Trung ương
Đảng, phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
Từ sau khi tướng Giáp rời khỏi Bộ Quốc phòng,
báo chí nhà nước không bao giờ gọi ông là “đại tướng”. Nhưng, cũng trong suốt
thời gian ấy, Võ Nguyên Giáp gần như rất ít khi rời khỏi bộ quân phục của mình.
Trong những chuyến công du hiếm hoi mà ông được cử, Võ Nguyên Giáp luôn mặc bộ
lễ phục cấp tướng sang trọng màu trắng.
Ông vẫn sống trong biệt thự 30 Hoàng Diệu.
Quân đội, ngay cả trong thời kỳ Lê Đức Anh làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, vẫn giữ
lực lượng vệ binh gác nhà ông. Nhưng, cao hơn cả mọi nghi lễ là sự ngưỡng mộ mà
các tướng lĩnh, quân đội, dân chúng dành cho ông. Tên tuổi tướng Giáp càng bị
biên tập khỏi các trang báo Nhân Dân thì nhân dân lại càng nhắc đến ông trong
đời thường của họ. Là một ông thầy dạy sử, có lẽ tướng Giáp biết được vị trí
trong lịch sử của mình. Ông đã đi qua những tháng ngày bị xếp xuống hàng cuối
cùng trên những khán đài, lặng lẽ và sừng sững.
Sau Đại hội Đảng lần thứ VII, năm 1991,
tướng Giáp chính thức rời khỏi chính trường. Cho dù vụ “Năm Châu-Sáu Sứ”, theo
ông Võ Viết Thanh, chỉ là một vụ án được dựng lên, Bộ Chính trị đã chưa một lần
minh oan như ông đề nghị. Mãi tới năm 1994, trong lễ “kỷ niệm 40 năm Chiến
thắng Điện Biên Phủ”, tên tuổi của ông mới chính thức được nhắc lại trong một
“diễn văn nhà nước”. Đó là bài diễn văn của Thủ tướng Võ Văn Kiệt đọc vào tối
6-5-1994: “Xin chào mừng Đại tướng Võ Nguyên Giáp, thời đó là tổng tư lệnh
Chiến dịch Điện Biên Phủ, người đã chấp hành triệt để và sáng tạo quyết định
của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị, cùng Bộ Chỉ huy Chiến dịch, chỉ đạo
trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ giành toàn thắng”. Ông Võ Văn Kiệt
nhớ lại: “Trước đó, khi Bộ trưởng Quốc phòng Đoàn Khuê lên Điện Biên Phủ kỷ
niệm 40 năm, diễn văn của Đoàn Khuê không hề nhắc một câu tới anh Giáp”.
Cho dù trong bài diễn văn được viết công
thức và rào đón của ông Kiệt, phần nói về tướng Giáp vỏn vẹn chỉ có năm mươi
chín từ, nhưng chỉ cần cái tên tướng Giáp được xướng lên cũng đủ làm cho Cung
Văn hoá Việt-Xô oà vỡ. Thật khó biết điều gì đang diễn ra trong lòng tướng
Giáp, từ lâu ông đã có một gương mặt rất ít biểu lộ. Nhưng những giọt nước mắt
của những người có mặt hôm ấy thì không thể kềm chế, chúng lăn rất nhanh trên
má họ; trong khi, tiếng vỗ tay kéo dài.
–––––––––––––––––––––––
Chú
thích
[173] Nguyễn Thị Sứ sinh năm 1934 tại Kiên
Giang, thường trú tại quận 5, thành phố Hồ Chí Minh. Từng tham gia lực lượng
Thanh niên Tiền Phong nhưng sau năm 1954 chọn ở lại miền Nam.
[174] Khi chính quyền Ngô Đình Diệm lập ấp
chiến lược, ba má ông Võ Viết Thanh đã lớn tuổi, chống không vô ấp. Tối
26-8-1962, một toán lính đồn Lương Phú, huyện Giồng Trôm, Bến Tre, đóng giả
giải phóng quân vào nhà “mời hai bác ra gặp giải phóng quân về”. Ông bà cảnh
giác không đi, liền bị trói dẫn ra bờ sông cắt cổ. Sáng hôm sau, Chính quyền
Sài Gòn tung tin, “Gia đình có hai con đi tập kết, hai con đi giải phóng quân
mà Việt cộng còn về giết thế này, cho nên không ai ở ngoài ấp chiến lược được”.
Về cáo buộc bắt hai cán bộ quân báo, theo ông Võ Viết Thanh: Chiều 30-4-1975,
trinh sát bắt được hai người: Phan Mậu, nguyên trung đoàn trưởng, Sư đoàn 5,
đầu hàng Sài Gòn trong chiến dịch Mậu Thân; Lê Đức Phượng, một tình báo viên
được Cục II đánh vào năm 1954 nhưng sau đó khi bị lộ đã phản bội. Ông Thanh,
khi ấy là Chính trị viên một tiểu đoàn thuộc Lữ đoàn quân báo 316, chỉ đạo thả.
Nhưng, ngày 2-5-1975, ông Thanh nói: “Lữ đoàn trưởng đi giao ban Bộ Chỉ huy
Chiến dịch Hồ Chí Minh về, truyền đạt lệnh: Trong khi còn tranh tối tranh sáng
cần xử lý ngay những tên đã gây tội ác. Anh yêu cầu tôi cho bắt lại hai đối
tượng đã tha vào chiều 30-4. Tôi truyền lệnh cho đại đội trinh sát rồi từ đó bị
công việc cuốn đi, không kiểm tra lại việc này nữa”. Sau Đại hội, ông Võ Viết
Thanh cho lục lại toàn bộ hồ sơ, thì được Tư lệnh Quân khu Thủ đô cho biết, Lê
Đức Phượng vừa mới được Cục II cấp tốc lập hồ sơ công nhận liệt sỹ. Theo ông Võ
Viết Thanh: “Sau này, khi đối chất trong một cuộc họp của Bộ Chính trị, Tư Văn
phải công nhận, Phượng không phải là đại uý cũng không phải là đảng viên. Tư
Văn nói: Do có sự nhầm lẫn ở phòng chính sách”.
[175] Sau khi Võ Viết Thanh bị đưa ra khỏi
danh sách ứng cử Ban chấp hành Trung ương, ngày 24-6-1991, Lê Đức Anh viết bức
thư thứ 2: “Kính gửi anh Linh, anh Tô, Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Trước đây khi
chuẩn bị nhân sự cho Đại hội VI, tôi đề nghị với Bộ Chính trị Khoá V cho phép
tôi được chuyên trách làm công tác tổng kết kinh nghiệm chiến tranh, không làm
việc gì khác. Bộ Chính trị lúc bấy giờ không chấp nhận và nói tiếp tục làm thêm
một khoá nữa. Theo sự phân công của Đảng, tôi đã cố gắng chấp hành nghiêm túc
quyết định của Đảng. Hiện nay tuổi đã lớn mà vẫn chưa thực hiện được nguyện
vọng cần thiết đó. Nay do công việc cần thiết tôi có thể tiếp tục làm việc thêm
vài năm nữa như nghiên cứu phối hợp chiến lược quốc phòng - an ninh với kinh tế
trước tình hình diễn biến rất phức tạp. Nếu Đảng phân công công việc cao hơn,
nặng hơn không hợp với sở trường của tôi, trong khi tuổi đã lớn, chắc chắn tôi
sẽ không làm được, có hại cho công việc của Đảng, của Tổ quốc. Xin Đảng cho
phép tôi, phân công cho tôi chuyên trách công tác tổng kết kinh nghiệm chiến
tranh và cùng với anh em nghiên cứu nâng cao những kinh nghiệm đó ứng dụng vào
tình hình mới, và xin được rút khỏi danh sách đề cử vào Bộ Chính trị Trung ương
khoá VII. Mong các anh chấp nhận. Lê Đức Anh” [Đại tướng Lê Đức Anh, Nhà Xuất
bản Quân đội Nhân dân 2005, trang 243]. Lê Đức Anh ra viện khi Đại hội Đảng lần
thứ VII bắt đầu. Ông Võ Viết Thanh kể: “Giờ giải lao, đích thân Lê Đức Anh tìm
tôi, rồi nắm lấy tay tôi kéo ra một hàng ghế bên hành lang Hội trường. Ông nói:
Việc xảy ra khi tôi đang bị chảy máu dạ dày, phải nằm viện nên không biết.
Chuyện Bảy Thanh thì tôi biết rõ là không có vấn đề gì. Để từ từ rồi mình
tính”. Ông Võ Viết Thanh nói: “Nghe ông Lê Đức Anh nói vậy tôi cũng xúc động,
nghĩ, Cục II làm như vậy có thể chỉ do mối quan hệ giữa tôi với Tư Văn. Nhưng,
khi tôi chuẩn bị rời Bộ Nội vụ về Sài Gòn, anh Bùi Thiện Ngộ, Bộ trưởng Bộ Nội
vụ, gọi tôi lên nói thì tôi mới giật mình. Anh Ba Ngộ nói: Bảy Thanh ơi, tôi
không biết Lê Đức Anh đối xử với anh thế nào nhưng, sau Đại hội, ông ấy bảo tôi
đừng để Bảy Thanh ở trong ngành mà nên chuyển ngay Bảy Thanh sang Bộ Thương
mại”.
[176] Năm 1983, sau gần bảy năm lặn lội
với lực lượng Thanh Niên Xung Phong, ông được ông Võ Văn Kiệt yêu cầu về công
tác trong ngành Công an. Trong năm đó, ông được bổ nhiệm làm Giám đốc Công an
Thành phố. Năm 1986, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, ông chính thức trở
thành uỷ viên Trung ương khi Nông Đức Mạnh, Nguyễn Tấn Dũng, Trương Mỹ Hoa chỉ
là uỷ viên dự khuyết. Trung tướng Võ Viết Thanh là anh hùng Quân đội. Bị buộc phải
ra đi ở một thời điểm mà không ai nghĩ là còn có kẻ thù. Không chỉ gạt được
tướng Giáp ra khỏi chính trường, vụ “Năm Châu - Sáu Sứ” còn chặn được con đường
của ông Võ Viết Thanh, người mà ông Võ Văn Kiệt hy vọng sẽ giữ chức Bộ trưởng
Bộ Nội vụ khi ông trở thành Thủ tướng.
[177] Đại tướng Võ Nguyên Giáp sinh năm
1911 tại thôn An Xá, xã Lộc Thuỷ, huyện Lệ Thuỷ, Quảng Bình. Tướng Giáp kể:
“Ông ngoại tôi vốn là một lãnh binh theo nghĩa quân Cần Vương”. Những năm học ở
Trường Quốc Học Huế, cậu Giáp thường tới nhà cụ Phan Bội Châu đàm đạo và được
cụ Phan cho mặc sức sử dụng kho sách của mình. Giáp cũng chơi thân với thầy
giáo Đặng Thai Mai. Năm ông mười sáu tuổi, người Pháp đuổi học Nguyễn Chí Diểu.
Giáp khởi xướng một cuộc bãi khoá để phản đối. Vì sự kiện ấy Giáp cũng bị đuổi
học, về làng. Anh Nguyễn Chí Diểu đến An Xá tìm Giáp: “Chúng tôi đã lập Đảng
Tân Việt”. Giáp bảo: “Tôi đi với anh”. Võ Nguyên Giáp là người đã góp phần tích
cực đưa Tân Việt tham gia Đông Dương Cộng sản Đảng. Tháng 10-1930, Giáp bị bắt cùng
với thầy Đặng Thai Mai và nhiều người khác, trong đó có Nguyễn Thị Quang Thái,
em gái nữ sĩ Nguyễn Thị Minh Khai. Năm 1929, Giáp cùng thầy Mai ra Hà Nội, vừa
dạy sử ở trường Thăng Long, vừa tự học lấy bằng cử nhân Luật và Kinh tế. Một
trong những học trò của tướng Giáp, ông Bùi Diễm, người đã từng là Bộ trưởng
Phủ Thủ tướng Việt Nam Cộng Hoà năm 1965, viết: “Những gì về ông Giáp hồi ấy
thật đặc biệt, vì vậy mà hơn nửa thế kỷ sau, tôi vẫn còn nhớ rõ rệt. Phần giảng
dạy của ông về Nã Phá Luân rất ly kỳ… Hình như ông đã in tất cả trong đầu và sử
trở thành một phần trong con người ông. Ông như chìm đắm vào thế giới của mình
và ông lôi kéo học trò vào thế giới đó” [Bùi Diễm, Trong Gọng Kìm Lịch Sử, Phạm
Quang Khai xuất bản năm 2000, trang 21, 22, 23]. Năm 1946, khi ông Đặng Thai
Mai chuyển từ Sầm Sơn ra Hà Nội, Giáp tìm tới thăm, lúc này cô con gái của thầy
Mai, Đặng Bích Hà đã là một cô gái xuân mười chín. Họ lấy nhau và có bốn người
con. Sau 1954, cả gia đình tướng Giáp, kể cả người con gái của ông và bà Quang
Thái, Võ Hồng Anh, sống quây quần trong biệt thự 30 Hoàng Diệu.
[178] Lê Duẩn, Nhà xuất bản Sự Thật 2002,
trang 36.
[179] Võ Nguyên Giáp và Nguyễn Thị Quang
Thái cưới nhau năm 1935. Năm 1940, khi cùng Phạm Văn Đồng sang Vân Nam gặp
Nguyễn Ái Quốc, Giáp chia tay với người vợ trẻ khi họ vừa có Hồng Anh, con gái
đầu lòng. Sau đó, Nguyễn Thị Quang Thái bị Pháp bắt rồi chết ở trong tù vào năm
1944. Theo lời kể của Giáo sư Võ Hồng Anh, con gái tướng Giáp: “Năm 1929, cha
tôi lần đầu tiên nghe nhắc đến cái tên Nguyễn Thị Quang Thái, cô em gái trẻ,
thông minh và rất xinh của Nguyễn Thị Minh Khai. Trong chuyến tàu cha tôi trở
lại Huế, tới Vinh thì gặp mẹ tôi lên tàu, cùng với một nữ sinh Đồng Khánh. Lúc
đó mẹ tôi mặc áo dài, tóc để xoã, da trắng, gương mặt sáng. Nhưng điểm gây ấn
tượng với cha tôi nhất là đôi mắt”.
[180] Tướng Giáp là người đội mũ phớt
trong bức hình chụp “34 chiến sỹ này” nên về sau Lê Đức Thọ đã gọi ông là “ông
tướng mũ phớt”.
[181] Năm 1948, với tư cách là uỷ viên
Thường vụ Trung ương, ông Thọ được cử vào Nam, nơi ông Lê Duẩn đang là bí thư
Xứ uỷ Nam Bộ. Trong một hội nghị do Xứ uỷ tổ chức vào năm 1949, Lê Đức Thọ đã
xuất hiện như một cấp trên, chỉ trích Xứ uỷ Nam Bộ bằng những lời lẽ nặng nề.
Theo ông Võ Văn Kiệt, người có mặt trong hội nghị này: “Mặc dù phái đoàn [anh
Lê Đức Thọ] có những đánh giá không sát với chiến trường Nam Bộ, nhưng trước
hội nghị, anh Ba vẫn nhận lấy trách nhiệm một cách nghiêm túc. Phát biểu của
anh Ba như tiếp thêm nguồn sinh lực và làm cho hội nghị trở nên hào hứng khi anh
phân tích có sức thuyết phục bằng tầm bao quát sâu rộng và những lý lẽ được
minh chứng bằng thực tiễn sinh động”. Con trai Tổng bí thư Lê Duẩn, ông Lê Kiên
Thành, nói rằng, khi mới vào Nam Bộ, ông Lê Đức Thọ là cấp trên và ông cũng có
ý định thay thế Lê Duẩn giữ chức bí thư Xứ uỷ, nhưng đã bị ông Lê Duẩn thuyết
phục hoàn toàn. Ông Lê Đức Thọ sau đó đã chủ động xin ở lại làm phó cho Lê
Duẩn.
[182] Lê Đức Thọ tên thật là Phan Đình
Khải, sinh ngày 10-10-1911, tại xã Địch Lễ, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Cha là
Phan Đình Quế, làm hương trưởng, chánh hương hội ở xã, từng được ban hàm cửu
phẩm. Hai vợ chồng ông Phan Đình Quế sinh được tám người con, trong đó có ba
người theo cộng sản: Phan Đình Khải [Lê Đức Thọ], Phan Đình Dinh [Đinh Đức
Thiện], Phan Đình Đống [Mai Chí Thọ]. Năm mười lăm tuổi, khi đang học tại
trường tiểu học tại Nam Định, Lê Đức Thọ đã tham gia bãi khoá và dự lễ truy
điệu cụ Phan Châu Trinh. Ba năm sau ông tham gia Đông Dương Cộng sản Đảng, làm
bí thư chi bộ học sinh. Tháng 11-1930, thì bị bắt, bị kết án mười năm khổ sai
và bị đày đi Côn Đảo. Ông được tha trước thời hạn vào năm 1936. Nhưng, năm
1939, do có hai đảng viên phản bội, gần như tất cả các tổ chức cộng sản ở bốn
tỉnh Nam Định, Thái Bình, Hà Nam, Ninh Bình đều bị vỡ, trên 500 nguời bị bắt,
trong đó có ba anh em Phan Đình Khải. Theo Hoàng Tùng, một người cùng quê, bị
bắt chung, “Phan Đình Khải bị tra tấn rất dã man vẫn không khai”. Sau khi ra
khỏi nhà tù Sơn La, Lê Đức Thọ bắt đầu được giao phụ trách công tổ chức và huấn
luyện cán bộ [từ tháng 9-1944] và được chỉ định làm uỷ viên Trung ương Đảng,
trực tiếp phụ trách Xứ uỷ Bắc Kỳ. Ông Thọ là một trong số các nhà lãnh đạo của
Đảng dự hội nghị mở rộng Ban Thường vụ Trung ương đêm 9-3-1945, hội nghị đề ra
chủ trương “phát động một cao trào cách mạng đi tới cuộc tổng khởi nghĩa”. Ông
được cử vào Ban Thường vụ Trung ương tại hội nghị cán bộ toàn quốc của Đảng ở
Tân Trào, tháng 8-1945 và kể từ sau Cách mạng tháng Tám được chính thức giao
phụ trách công tác tổ chức của Đảng. Từ năm 1956, sau khi ông Lê Văn Lương nhận
án kỷ luật trong vụ cải cách ruộng đất, Lê Đức Thọ chính thức làm trưởng Ban Tổ
chức Trung ương
[183] Lê Duẩn, Nhà xuất bản Sự Thật 2002,
tr 36.
[184] Báo Nhân Dân số ra ngày 12-7-1956.
[185] Bài diễn văn ngày 9-7-1956 của Đại
tướng Võ Nguyên Giáp có đoạn: “Tháng 7-1956 đã đến, cuộc tổng tuyển cử đúng kỳ
hạn theo hiệp định Geneva quy định đang bị đế quốc Mỹ và chính quyền miền Nam
phá hoại. Nhưng, trong thời gian hai năm qua nhân dân ta đã thu được những
thắng lợi to lớn: miền Bắc được giải phóng và bước đầu được củng cố, phong trào
đấu tranh của nhân dân miền Nam được giữ vững và rèn luyện, sự đồng tình quốc
tế ngày càng vững thêm… Chủ trương của chúng ta là thống nhất nước nhà bằng
phương pháp hoà bình, và chúng ta nhận định rằng trong điều kiện trong nước và
thế giới hiện nay, sự nghiệp thống nhất nước nhà của Việt Nam ta có khả năng
hoàn thành bằng phương pháp hoà bình… Chúng ta đã kháng chiến lâu dài để tranh
thủ hoà bình, hoà bình được lập lại là một thắng lợi của nhân dân ta. Hoà bình
càng được củng cố lâu dài thì thắng lợi của ta càng có điều kiện phát triển.
Chúng ta kiên quyết đấu tranh lâu dài để thực hiện thống nhất nước nhà. Đó cũng
tức là cuộc thi đua hoà bình giữa chế độ chính trị của miền Bắc và chế độ chính
trị của miền Nam ở trong phạm vi một nước” [Báo Nhân Dân số ra ngày 12-7-1956].
[186] Báo Nhân Dân số ra ngày 12-7-1956.
[187] Báo Nhân Dân số ra ngày 12-7-1956.
[188] Trong bài phát biểu trước cuộc mit
tinh ở Hà Nội ngày 9-7-1956, tướng Giáp nói: “Trong tình thế hiện nay, chủ
trương đó [thi đua hoà bình] là chủ trương chính xác duy nhất. Nhận định trên
hoàn toàn phù hợp với sự phân tích tình hình thế giới của Đại hội lần thứ 20
của Đảng Cộng sản Liên Xô, đại hội đã nêu ra những hình thức mới tiến lên chủ
nghĩa xã hội trong đó có đường lối hoà bình phát triển không dùng đến vũ trang
đấu tranh” [Báo Nhân Dân số ra ngày 12-7-1956].
[189] Văn Kiện Đảng Toàn tập, tập 17-1956,
trang 797-798.
[190] Sách đã dẫn.
[191] Báo Nhân Dân số ra ngày 12-7-1956.
[192] Sách đã dẫn.
[193] Nhiều tác giả, Tổng tập Lê Duẩn, Nhà
xuất bản Sự Thật 2002, trang 35-36.
[194] Nhiều tác giả, Tổng tập Lê Duẩn, Nhà
xuất bản Sự Thật 2002.
[195] Phạm Văn Trà, Đời Chiến Sĩ, Nhà xuất
bản Quân đội Nhân dân 2009.
[196] Nhiều tác giả, Tổng tập Lê Duẩn, Nhà
xuất bản Sự Thật 2002, trang 36.
[197] Henry Kissingger, Ending the Vietnam
War, Simon & Schuster 2003, trang 26.
[198] Sách đã dẫn.
[199] Hai đại đội Quân Giải phóng đã đọ
súng với một lực lượng quân Việt Nam Cộng Hoà đông gấp bốn lần, có thiết vận xa
M113, máy bay, pháo binh và cố vấn Mỹ. Kết quả, phía Việt Nam Cộng Hoà: sáu
mươi chết, 109 bị thương; cố vấn Mỹ: 3 chết, 8 bị thương. Phía Quân Giải phóng,
ngay trong đêm rút lui an toàn về Đồng Tháp Mười.
[200] Viện trưởng Viện Triết học, Hiệu phó
Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc.
[201] Tháng 4-1963, ông Ung Văn Khiêm đã
bị cho thôi chức Bộ trưởng Ngoại giao sang làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ.
[202] Tháng 9-1963, Đại tá Lê Đức Anh được
bổ nhiệm làm phó Tổng tham mưu trưởng và vào “cuối mùa đông” năm đó ông được cử
vào Nam. Theo ông Lê Đức Anh: “Trước ngày ra đi ông Văn Tiến Dũng căn dặn: ‘Vào
tới nơi anh báo cáo với hai anh Nguyễn Văn Linh và Trần Văn Trà, bàn với các
anh thực hiện Nghị quyết 15: Việc thứ nhất, ra sức xây dựng lực lượng quân sự
tại chỗ; thứ hai, miền Đông Nam Bộ thì nên mở rộng ra hướng biển Đông; thứ ba,
cố giành và khai thác nhân tài, vật lực để phát triển cách mạng’. Sau đó, ông
Lê Đức Anh sang gặp ông Lê Duẩn tại số 6 Hoàng Diệu, ông Lê Duẩn nói: ‘Ba ý
kiến đó đúng. Nhưng thêm một điều quan trọng nữa, là chú trọng xây dựng lực
lượng cách mạng và hoạt động vũ trang ở trong đô thị và vùng ven đô” [Đại tướng
Lê Đức Anh, Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân 2005, trang 63]. Khi ấy, ở Trung
ương Cục ông Nguyễn Văn Linh đang là bí thư; ở Bộ chỉ huy Miền, tướng Trần Văn
Trà làm tư lệnh, cả hai đều nói: “Thế thì chúng ta cứ làm theo ý của anh Ba
Duẩn và anh Văn Tiến Dũng” [Đại tướng Lê Đức Anh, Nhà xuất bản Quân đội Nhân
dân 2005, trang 65].
[203] Theo Đại tướng Phạm Văn Trà: “Ngày
1-12-1963, tôi được thông báo về nhận nhiệm vụ mới… Chúng tôi hành quân vào tập
kết ở Tây Hồ, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá. Tại đây, các đồng chí Tô Ký, Đồng
Văn Cống, quán triệt tình hình nhiệm vụ, động viên và bố trí chuẩn bị lần cuối
thật chu tất cho chuyến hành quân xa” [Đại tướng Phạm Văn Trà, Đời Chiến Sĩ,
Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân 2009, trang 87].
[204] Giữa năm 1963, Sắc lệnh cấm treo cờ
của các giáo phái, các nhóm tôn giáo và các đảng phải chính trị của Tổng thống
Ngô Đình Diệm đã tạo ra một làn sóng chống đối. Trong cuộc biểu tình tại Huế
vào ngày 8-5-1963, binh lính đã nổ súng vào đoàn người biểu tình. Ngày
11-6-1963, tại Sài Gòn, trước ngã tư Phan Đình Phùng - Lê Văn Duyệt, Hoà thượng
Thích Quảng Đức đã tự thiêu. Bức ảnh chụp vị sư già ngồi thiền trong khi lửa
cháy được truyền đi khắp thế giới như một bằng chứng về sự mất lòng dân của Ngô
Đình Diệm. “Giọt nước tràn ly” khi ngày 21-8-1963, lực lượng của Ngô Đình Nhu
bất ngờ khám xét hàng loạt chùa chiền, bắt đi hơn 1.400 nhà sư.
[205] Henry Kissinger, Ending the Vietnam
War, Simon & Schuster, 2003, trang 35.
[206] Ngày 2-11-1963: 6:20, ông Diệm gọi
điện thoại cho tướng Trần Văn Đôn xin đầu hàng và được an toàn tới phi trường
để ra đi cùng với Ngô Đình Nhu; 6:45 tướng Khiêm được ông Diệm cho biết nơi hai
anh em ông đang trốn; 7:00 tướng Big Minh sai Mai Hữu Xuân đi đưa ông Diệm về
Bộ Tổng tham mưu; 8:30 hai anh em Diệm và Nhu bị giết trong một chiếc xe M113,
trên xe khi ấy có Đại uý Nguyễn Văn Nhung, cận vệ tướng Big Minh. Không rõ ai
đã ra lệnh giết hai ông Diệm - Nhu vì sau đó ít lâu Đại uý Nhung đã chết và
được công bố là “tự tử”.
[207] Mật danh các chiến trường miền Nam:
B-2 gồm các tỉnh Nam Bộ; B-3 Tây Nguyên. Các chiến trường Campuchia gọi là K;
Lào gọi là C.
[208] Tướng Giáp khẳng định với Bộ trưởng
Quốc phòng Mỹ McNamara trong cuộc gặp ngày 23-6-1997 tại Hà Nội. Năm 2005, tài
liệu giải mật của Nhà Trắng cho thấy Tổng thống Johnson biết là không có cuộc
tấn công thứ hai vào ngày 4-8. Tuy nhiên, sự kiện ấy đã không được Nhà Trắng
báo cho Quốc hội và ngay cả Bộ trưởng Quốc phòng cũng bất ngờ khi nghe tướng
Giáp nói.
[209] Đại tướng Phạm Văn Trà kể: “Ngày
14-8-1964, đoàn chúng tôi chính thức lên đường. Đoàn xe ô tô của Tổng cục Hậu
cần đưa chúng tôi về Nam theo đường số 1. Toàn đoàn trên dưới 160 anh em, hầu
hết là sĩ quan cấp uý… Trước đó hơn một tuần, không quân Mỹ đã ào ạt đánh phá
Đồng Hới, Quảng Bình, Vinh - Cửa Hội, Nghệ An, Lạch Trường, Thanh Hoá, Hòn Gai,
Quảng Ninh… Bà con ở Vinh kể lại, ngày 5-8-1964, máy bay Mỹ ném bom trúng kho
xăng Bến Thuỷ, mặc dầu xăng dầu ta chuyển sơ tán từ trước, chỉ còn dầu cặn,
nhưng khói lửa vẫn bùng cao hàng nghìn mét” [Đại tướng Phạm Văn Trà, Đời Chiến
sĩ, Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân 2009, trang 92].
[210] Theo Đại tá Lê Trọng Nghĩa, tướng
Trần Quý Hai là người thân tín của Lê Duẩn và Lê Đức Thọ.
[211] Henry Kissingger, Ending the Vietnam
War, Simon & Schuster, 2003, trang 42.
[212] Lưu Văn Lợi & Nguyễn Anh Vũ,
sách đã dẫn, trang 124.
[213] Mikhalowski, được nói là “đặt nhiều
hy vọng vào cuộc gặp gỡ với Chủ tịch Hồ Chí Minh”, ông nói: “Tôi được uỷ nhiệm
của các đồng chí lãnh đạo chúng tôi đến tìm hiểu ý kiến của các đồng chí về
việc này… Tôi nghĩ rằng nếu Tổng thống Mỹ thấy các đồng chí bác bỏ khả năng đàm
phán thì chỉ còn con đường đẩy mạnh chiến tranh” [Lưu Văn Lợi & Nguyễn Anh
Vũ, sách dã dẫn, trang 127-128]. Nhưng, Hồ Chí Minh còn tỏ ra cứng rắn hơn cả
Phạm Văn Đồng: “Tại sao Mỹ phải đi gõ cửa khắp nơi? Chính Mỹ gửi quân đội Mỹ
đến đây, bây giờ Mỹ phải đình chỉ xâm lược, như vậy vấn đề sẽ giải quyết. Mỹ
phải cút đi!… Chúng tôi không muốn trở thành người chiến thắng. Chúng tôi chỉ
muốn Mỹ cút đi! Gut-bai [Goodbye]” [sách dã dẫn, trang 128]. Mikhalowski cố
gắng: “Chiến tranh ghê gớm sẽ kéo dài năm năm, mười năm. Tại sao không vận dụng
chiến thuật chính trị để đạt được kết quả tương tự? Rất có thể là Mỹ bây giờ
cũng muốn rút lui theo một phương thức nào đó” [sách đã dẫn, trang 129]. Hồ Chí
Minh: “Mỹ có mạnh hơn Pháp, nhưng ngay nay chúng tôi cũng mạnh hơn trước kia…
Khi chống Pháp, chúng tôi có một mình, bây giờ có cả phe xã hội chủ nghĩa ủng
hộ chúng tôi” [sách đã dẫn, trang 129]. Mikhalowski: “Nhưng phe xã hội chủ
nghĩa của chúng ta không nhất trí. Chỉ có các đồng chí là đổ máu. Giá phải trả
sẽ rất cao” [sách đã dẫn, trang 129]. Hồ Chí Minh: “Nhân dân Việt Nam không sợ.
Nếu đời chúng tôi không hoàn thành thì con cháu chúng tôi sẽ hoàn thành” [sách
đã dẫn, trang 129].
[214] Lưu Văn Lợi & Nguyễn Anh Vũ, Các
cuộc thương lượng Lê Đức Thọ - Kissinger tại Paris, Nhà xuất bản Công an Nhân
dân 2002, trang 147.
[215] Lưu Văn Lợi & Nguyễn Anh Vũ,
sách đã dẫn, trang 147.
[216] Lưu Văn Lợi & Nguyễn Anh Vũ,
sách đã dẫn, trang 148.
[217] Lưu Văn Lợi & Nguyễn Anh Vũ,
sách đã dẫn, trang 149.
[218] Raymond Aubrac [1914-2012], và vợ
ông, bà Lucie [1912-2007], là hai nhân vật kiệt xuất trong cuộc Kháng chiến của
người Pháp chống phát xít Đức [1940-1944]. Trong thời gian lãnh đạo chính quyền
ở Marseille, nửa cuối năm 1944, Raymond Aubrac đã tận tình giúp đỡ giới “lính
thợ” [ONS] người Việt ở vùng này, những người mà về sau trở thành những hạt
nhân đầu tiên của phong trào Việt kiều ở Pháp. Mùa hè 1946, khi tới Pháp, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã tìm gặp Raymond Aubrac. Chỉ sau một lần tiếp xúc, Chủ tịch
Hồ Chí Minh và những người thân cận trong phái đoàn [Vũ Đình Huỳnh, thư ký
riêng, đóng vai ‘tuỳ viên quân sự’, Phạm Văn Đồng, người sẽ cầm đầu phái đoàn
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ở Hội nghị Fontainebleau…] đã trở thành “khách”
thường trú tại ngôi nhà của ông bà ở Soisy-sous-Montmorency [cách Paris 16 km
về phía bắc]. Cũng trong thời gian này, bà Lucie đã sinh hạ con gái út là Elisabeth
[Babette] mà Hồ Chủ tịch nhận làm cha đỡ đầu. Ngoài chuyến đi đến Hà Nội năm
1967, năm 1975, khi chiến tranh vừa chấm dứt, Raymond Aubrac đã thuyết phục
được McNamara trao cho chính phủ Việt Nam toàn bộ các bản đồ các bãi mìn dọc
theo “bức tường McNamara” [theo Nguyễn Ngọc Giao].
[219] Lưu Văn Lợi & Nguyễn Anh Vũ, Các
cuộc thương lượng Lê Đức Thọ - Kissinger tại Paris, Nhà xuất bản Công an Nhân
dân 2002, trang 215.
[220] Phạm Văn Đồng đã nói cụ thể với hai
sứ giả của Washington: “Có hai loại vấn đề: thương lượng và giải pháp. Muốn có
thương lượng, chúng tôi đứng trên lập trường nguyên tắc của chúng tôi: phải
chấm dứt không điều kiện việc ném bom miền Bắc mới có thể thương lượng. Trong
quá trình thương lượng, chúng tôi biết chúng tôi phải nói gì. Mỹ hãy chuẩn bị
về phía họ!”. Aubrac: “Thế nào là việc ném bom không điều kiện?”. Phạm Văn
Đồng: “Tôi muốn họ ra một tuyên bố. Nhưng chúng tôi không quá khó tính”.
Marcovich: “Có lẽ là một việc ngừng ném bom trên thực tế, không tuyên bố”. Phạm
Văn Đồng: “Chúng tôi không khó tính về điểm này. Điều chủ yếu là ngừng không
điều kiện. Chúng tôi sẽ không nói chuyên dưới sự đe doạ của bom đạn”. Marcovich
nhắc lại điều mà một năm trước đó Sainteny đã nói: “Hoa Kỳ không muốn chịu mất
thể diện. Kissinger đã nói với chúng tôi: làm thế nào giúp họ rút đi” [Lưu Văn
Lợi & Nguyễn Anh Vũ, Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ - Kissinger tại
Paris, Nhà xuất bản Công an Nhân dân 2002, trang 218].
[221] Lưu Văn Lợi & Nguyễn Anh Vũ, Các
cuộc thương lượng Lê Đức Thọ - Kissinger tại Paris, Nhà xuất bản Công an Nhân
dân 2002, trang 228.
[222] Lưu Văn Lợi & Nguyễn Anh Vũ, Các
cuộc thương lượng Lê Đức Thọ - Kissinger tại Paris, Nhà xuất bản Công an Nhân
dân 2002, trang 228-229.
[223] Henry Kissingger, Ending the Vietnam
War, Simon & Schuster, 2003, trang 42.
[224] Vũ Kỳ, “Bác Hồ với Tết Mậu Thân Năm
Ấy”, báo Văn Nghệ số Xuân năm 1998.
[225] Vũ Kỳ, “Bác Hồ với Tết Mậu Thân Năm
Ấy”, báo Văn Nghệ số Xuân năm 1998.
[226] Vũ Kỳ, “Bác Hồ với Tết Mậu Thân Năm
Ấy”, báo Văn Nghệ số Xuân năm 1998.
[227] Vũ Kỳ, “Bác Hồ với Tết Mậu Thân Năm
Ấy”, báo Văn Nghệ số Xuân năm 1998.
[228] Báo Nhân Dân số ra ngày 7-1-2008.
[229] Vũ Kỳ, “Bác Hồ với Tết Mậu Thân Năm
Ấy”, báo Văn Nghệ số Xuân năm 1998.
[230] Theo Vũ Kỳ: “Hai Bác cháu lại ngồi
im lặng bên nhau, nghe tin tức, ca nhạc và nghe ngâm thơ Tết, chờ đón giao
thừa. Thời gian trôi đi chầm chậm. Thấy vẻ Bác trầm ngâm đượm buồn… Từ ngày Bác
trở về nước sau hơn ba mươi năm xa tổ quốc, có năm nào Tết đến mà Bác không đến
với đồng bào và chiến sĩ đâu… Chỉ có mùa xuân này Bác phải xa tổ quốc. Bác bảo
tôi: chú mở cái băng gì vui vui cho Bác nghe với. Tôi biết Bác thương nhớ nhất
các cháu nhỏ nên tôi chọn một băng có nhiều bài hát thiếu nhi mở cho Bác nghe.
Khi một giọng hát ngây thơ của một em bé hát bài “Bé bé bồng bông… em đi sơ
tán, mai về phố Đông”, tôi thấy Bác mỉm cười. Có tiếng pháo nổ ran tiễn Đinh
Mùi đón Mậu Thân. Cùng lúc, từ chiếc đài bán dẫn, lời chúc Tết của Bác Hồ vang
lên sang sảng:
Xuân
này hơn hẳn mấy xuân qua
Thắng
lợi tin vui khắp mọi nhà
Nam
Bắc thi đua đánh giặc Mỹ
Tiến
lên!
Toàn thắng ắt về ta!
Tiếng Bác Hồ ngân vang. Trong căn phòng
vắng chỉ có hai người”. Bài thơ trên đây được Hồ Chí Minh làm trong gần ba
tháng khi đang ở Bắc Kinh và đã được thu thanh khi ông về Hà Nội hồi cuối tháng
12-1967 [Vũ Kỳ, “Bác Hồ với Tết Mậu Thân Năm Ấy”, báo Văn Nghệ số Xuân năm
1998].
[231] Đặng Kim Giang là một trong bốn chỉ
huy quan trọng nhất của chiến dịch Điện Biên Phủ, với vai trò chủ nhiệm cung
cấp của mặt trận, ông đã đảm bảo mỗi ngày năm mươi tấn gạo cho chiến dịch. Năm
1958, ông được phong quân hàm thiếu tướng. Năm 1962, ông ra làm thứ trưởng Bộ
Nông trường.
[232] Ông Nguyễn Kiến Giang, người bị bắt
giam sáu năm và quản chế ba năm, nói: “Cho đến bây giờ tôi cũng không biết là
tôi có tội gì nữa. Người ta bảo là tôi phản động, tay sai nước ngoài, thì cũng
nghe nói thế thôi, chứ còn trên thực tế, bị giam ở xà lim mấy năm, thêm mấy năm
quản chế, khoảng gần mười năm, cho đến khi trở về Hà nội với tư cách là một
người công dân, tôi cũng không biết là tôi có tội gì. Cho tới nay cũng không ai
nói với tôi là tôi có tội gì nữa”.
[233] Ngày 27-1-1972, Ban Chấp hành Trung
ương mới ra nghị quyết tước quân hàm trung tướng của ông Nguyễn Văn Vịnh, khai
trừ đảng tịch ông Vịnh, ông Ung Văn Khiêm, Bùi Công Trừng và Lê Liêm. Ngày
13-10-1977, sau khi giữ đảng tịch, giữ quân hàm thiếu tướng cho tướng Vịnh,
Quyết định số 255 do chính Lê Đức Thọ ký, viết: “Đồng chí Nguyễn Văn Vịnh biết
Đặng Kim Giang là phần tử xấu có quan điểm chống lại Nghị quyết 9 của Đảng vẫn
quan hệ trao đổi một số quan điểm sai trái về đường lối chống Mỹ, tiết lộ những
tin tức cơ mật về quân sự, chính trị với Giang. Giang đã sử dụng những tin ấy
để hoạt động chống Đảng và cung cấp cho người nước ngoài. Nhưng tác hại không
lớn. Đồng chí Vịnh không có quan hệ về tổ chức và hành động với nhóm chống Đảng
của Đặng Kim Giang và không biết Giang hoạt động chống Đảng có tổ chức như sai
lầm của 3 uỷ viên Trung ương: Ung Văn Khiêm, Lê Liêm, Bùi Công Trừng”.
[234] Từ năm 1973, ông Phạm Văn Hùng là
thư ký ông Võ Văn Kiệt.
[235] Võ Nguyên Giáp, Tổng tập Lê Duẩn,
Nhà xuất bản Sự Thật 2002, tr 39.
[236] Theo ông Nguyễn Nhật Hồng, trưởng
phòng B29, một phòng đặc biệt phụ trách chi viện cho miền Nam: Trong năm 1967,
Trung ương cho in 10.000 hòm tiền “Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam”; vì số
tiền này dự định phát hành trong năm 1968 nên có mật danh là “hàng 68”. Khi ấy,
ở Trung ương Cục cũng đang tồn 14.000 hòm tiền “Chánh phủ Lâm thời Cộng hoà
Miền Nam Việt Nam”, mật danh là “hàng 65”. Dự kiến, tuỳ theo tình hình, giải phóng
ở cấp độ nào thì dùng “hàng” ở quy mô ấy.
[237] Tướng Giáp phát biểu với các tướng
lĩnh làm công tác Tổng kết chiến tranh ngày 9-2-1999 - Theo tướng Lê Phi Long.
[238] Lê Duẩn phát biểu tại Hội nghị Trung
ương 14, tháng 12-1967: “Muốn thắng nó, làm sập nó dữ, không phải đánh thường
thường như bây giờ, mà phải chuyển qua một giai đoạn mới, giai đoạn đó là
chuyển qua tổng công kích, tổng khởi nghĩa”. Ông giải thích: “Tổng công kích,
tổng khởi nghĩa… [theo] quan niệm của Lênin: khởi nghĩa ở đô thị là một cuộc
cướp chính quyền, là giai đoạn đầu tiên của chiến tranh cách mạng, không có
cuộc khởi nghĩa nào rồi là xong đâu, như ta làm Cách mạng Tháng Tám rồi, ta
phải kháng chiến chín năm nữa”. Nhưng, ông nhấn mạnh: “Cuộc khởi nghĩa ta nói
đây là một giai đoạn cuối cùng, không phải giai đoạn đầu, không phải là một cú,
mà là một giai đoạn… Ta có lý luận quân sự,… có những lực lượng quân sự khá
mạnh, những chủ trương lớn và những mũi nhọn khá mạnh đánh ngay vào tim nó;
vùng dậy cả về quân sự, chính trị trong một thời gian. Ở đây ta có nhảy vọt
lên, nó có nhảy vọt xuống, ghê gớm lắm, không lường thế nào cho hết đâu. Nếu
Sài Gòn bị sập một cái, nửa triệu người, vài ba chục vạn người cầm súng cho ta
đánh nó thì lắm vấn đề lớn lắm, không lường hết được” [Báo Nhân Dân số ra ngày
7-1-2008].
[239] Báo Nhân Dân số ra ngày 7-1-2008.
[240] Đại tá Tư Chu giải thích: “Theo kế
hoạch chiến đấu Đợt Một Mậu Thân thì các đơn vị Biệt động có nhiệm vụ xung
kích, cố giữ các mục tiêu trong vòng một giờ, sẽ có các tiểu đoàn bộ binh mũi
nhọn của các phân khu tiến vào tiếp ứng để đánh chiếm toàn bộ mục tiêu, tiêu
diệt cơ quan đầu não của Mỹ-Nguỵ, đồng thời có binh biến của một số đơn vị nguỵ
quân, có nổi dậy của hàng vạn thanh niên và quần chúng ở các quận nội đô để
giành quyền làm chủ các địa bàn, mục tiêu ta chiếm được. Trên thực tế, không có
binh biến cũng như nổi dậy, bộ đội chủ lực thì có nơi không vào kịp, hoặc không
vào được, chỉ có các đơn vị biệt động đánh vào 5 mục tiêu một cách đơn độc, có
đơn vị phải chiến đấu cho đến người cuối cùng”.
[241] Võ Nguyên Giáp, Tổng tập Lê Duẩn,
Nhà xuất bản Sự Thật 2002, tr 39.
[242] Ở Huế: Khoảng 2:40, một tiểu đoàn
đặc công người Huế, 2 trung đoàn bộ binh người miền Bắc và một tiểu đoàn hoả
lực tràn vào chiếm Thành. Trong 6 ngày đầu của cuộc tấn công, Đại tá Tỉnh
trưởng Thừa Thiên Phạm Văn Khoa phải trốn trên xà nhà của một bệnh viện. Quân
Giải phóng đã trụ được 26 ngày và một số ngày trong khoảng thời gian này, cờ
xanh - đỏ - sao vàng đã được kéo lên cột cờ cao nhất ở Huế. Nhưng, Huế đã bị
tàn phá nặng nề bởi bom đạn của cả đôi bên: 14.000 thường dân chết; 24.000 dân
thường bị thương, chưa kể gần 3.000 lính Sài Gòn và lính Mỹ; 627.000 người dân
mất nhà mất cửa. Có nhiều người Huế đã bị bắt đi, bị thủ tiêu. Huế, đã trở
thành một biểu tượng khiến cho khi nói về Mậu Thân, người dân miền Nam đã nghĩ
ngay đến màu tang tóc. Ở miền Tây, theo Đại tướng Phạm Văn Trà: “Tiểu đoàn
chúng tôi, ngày xuất quân với 7 đại đội đủ quân, xấp xỉ một nghìn tay súng, sau
khi kết thúc đợt 1, chỉ còn trên một trăm cán bộ, chiến sĩ. Có tiểu đoàn, khi
đánh vào Cần Thơ bộ đội ngồi chật cả trăm xuồng, khi ra chỉ vài chục chiếc, mỗi
chiếc chở vài ba anh em. Đành rằng, trong chiến tranh, không phải lúc nào cũng
lấy việc ‘đếm xác’ của hai bên trên chiến trường để kết luận sự thắng bại;
nhưng để tổn thất lớn là điều chúng ta phải trăn trở, suy nghĩ; đặc biệt đối
với chúng tôi là những người cầm quân trên chiến trường… Tôi nhớ khi đó anh em
trong đơn vị đã truyền nhau mấy câu lục bát:
Vòng
cung đi dễ khó về
Đạn
chen đầu đạn, bom kề hố bom;
Hay là:
Tưởng
là lên lộ đi xe
Ai
ngờ trở lại không ghe, không xuồng.
Chủ nhân của mấy câu lục bát ấy, một phóng
viên mặt trận, bị phát hiện và chịu nhận hình thức cảnh cáo” [Phạm Văn Trà, Hồi
ký Đời Chiến sỹ, Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân 2009, trang 142-143]. Trên thực
tế chiến trường, Cuộc Tổng công kích và khởi nghĩa đã bị nghiền nát. Tài liệu
kiểm điểm của Khu uỷ Khu IX, nơi ông Võ Văn Kiệt làm Bí thư từ năm 1970, viết:
Do“chăm bẵm vào khả năng giải phóng hoàn toàn”, Khu uỷ đã tập trung toàn lực, tấn
công vào đầu não đô thị. Quân đội Mỹ và Sài Gòn, nhân cơ hội ấy, tiến hành
“Bình định đặc biệt”,“Bình định cấp tốc” ở vùng nông thôn, gom dân vào ấp, cán
bộ đảng viên bị dạt ra khỏi dân. Quân đội Sài Gòn đóng thêm 1000 đồn bốt. Trong
số 250 xã Miền Tây Nam Bộ, cuối năm 1968, có 50 xã, đảng viên phải ly hương; 40
xã khác, chỉ còn một hoặc hai đảng viên. Các trung đoàn chủ lực cũng bị đánh
dạt sâu về Trà Vinh, U Minh. Trong khi số lượng du kích sụt, tân binh lại không
tuyển được ngay cả trong những “xã giải phóng”… Trong Chiến dịch Mậu Thân, ông
Võ Văn Kiệt đã vào sâu tận nội thành Sài Gòn, chiều mùng Một Tết, ông đã có mặt
ở một xóm nhỏ gần đình Bình Đông, Quận Tám. Tiền phương của Sài Gòn cũng nhận
được những lệnh liên tiếp tập kích vào đô thị để “giành thắng lợi tối đa”.
Những người trực tiếp ở chiến trường như ông đã phải chứng kiến sự hy sinh quá
lớn. Ông nói: “Lúc đó tôi đau đến mức nhiều lần bật khóc”. Hơn 11 vạn quân giải
phóng đã hy sinh trên toàn chiến trường, còn thương vong của dân chúng thì không
thể nào tính được. Phần lớn căn cứ địa Quân Giải phóng ở nông thôn đã trở thành
“đất trắng”. Chưa bao giờ quân Giải phóng ở trong tình trạng như vậy, có những
sỹ quan chỉ huy cấp sư đoàn cũng chịu không nổi, phải ra đầu hàng chính quyền
Sài Gòn. Ngày 9-2-1999, khi nói chuyện với các tướng lĩnh làm Tổng kết chiến
tranh, tướng Giáp nói: “Có đồng chí chỉ huy gửi điện cho tôi nói rõ tình hình
bộ đội tan tác, ẩn nấp trong rừng mặn ngập nước ở phía Đông Nam Sài Gòn, tướng
không chỉ huy được quân nữa. Ở Huế, anh Trần Văn Quang gửi tôi một bức điện dài
16 trang, xin rút. Tôi đồng ý và viết điện trả lời. Sáng hôm sau giao ban thấy
bức điện vẫn để nguyên trên bàn, tôi hỏi tại sao chưa gửi thì anh Văn Tiến Dũng
trả lời: ‘Việc này hệ trọng phải đem ra bàn bạc trong tập thể Quân uỷ đã, mình
anh quyết định sao được’. May mà lúc đó ở dưới, anh em đã rút. Đồng chí Tư Chu,
chỉ huy Biệt động Sài Gòn, cũng có kể cho tôi nghe thực cảnh bộ đội sau năm
1968. Thiệt hại to lớn quá. Giá đắt quá! Về Huế thì anh Đặng Kinh, khi ấy là phó
tư lệnh Mặt trận, biết quá rõ. Sau này anh ấy ra Bộ báo cáo và để lại nhiều tài
liệu quan trọng. Những băn khoăn về Mậu Thân còn dai dẳng, thời gian cũng không
thể che lấp được. Lịch sử đang đợi những người còn sống phải làm rõ, nhất là
những người có chức, có quyền”.
[243] Henry Kissinger, Ending the Vietnam
War, Simon & Schuster, 2003, trang 47.
[244] Sách đã dẫn.
[245] Sách đã dẫn.
[246] Xem Phụ lục: Đánh & Đàm.
[247] Võ Nguyên Giáp, Tổng Hành dinh trong
mùa xuân Đại thắng, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia 2000, trang 48-49.
[248] Sách đã dẫn, trang 54.
[249] Sách đã dẫn, trang 55.
[250] Sách đã dẫn, trang 55.
[251] Sách đã dẫn, trang 55.
[252] Sách đã dẫn, trang 55.
[253] Mật danh của Khu IX.
[254] Các tướng lĩnh cho rằng Trần Quỳnh
đã bịa đặt khi viết trong Hồi ký: “Mọi việc quân sự, Lê Duẩn trực tiếp làm việc
với Bộ tổng tham mưu, có khi làm việc trực tiếp với Cục tác chiến. Nơi làm việc
có khi là trong Bộ Quốc phòng, có khi tại nhà riêng của Lê Duẩn, có khi tại khu
nhà khách Trung ương Quảng Bá, có khi là khu nghỉ mát Đồ Sơn. Sau đó anh em ở
Bộ tham mưu, Cục tác chiến làm đề án trình Quân uỷ, rồi Quân uỷ trình ra Bộ
chính trị quyết định. Cách làm việc của Lê Duẩn có tính cách gia đình, không
biên bản không ghi âm. Lê Duẩn nói, anh em ghi chép. Chính cách làm việc này để
lại hậu quả là kẻ có dã tâm nhận ý kiến của Lê Duẩn làm của mình”.
[255] Võ Nguyên Giáp, Tổng Hành dinh trong
mùa xuân Đại thắng, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia 2000, trang 67.
[256] Trần Văn Trà, Hồi ký Kết Thúc Cuộc
Chiến Tranh 30 Năm, Nhà xuất bản Văn Nghệ TP HCM 1982.
[257] Henry Kissinger, Ending the Vietnam
War, Simon & Schuster, 2003, trang 493.
[258] Quân lực Việt Nam Cộng Hoà lúc đó ở
trong tình trạng: “Không đủ để thay thế các thiết bị hư hỏng hoặc mất mát; giảm
50 phần trăm hiệu năng của số máy bay đã hạ cánh thuộc 11 phi đội hàng đầu;
giảm 30 phần trăm sự hoạt động của các tàu biển và 82 phần trăm đối với các tàu
sông; quân nhu y tế sẽ sử dụng hết vào cuối tháng Năm năm 1975; nhiên liệu cho
lục quân sẽ cạn kiệt vào cuối tháng Tư năm 1975; vào cuối năm tài khoá 1975,
quân đội sẽ chỉ có một phần tư số dự trữ đạn dược tối thiểu cần thiết để đối
phó một cuộc tấn công lớn; các máy bay và thiết bị mặt đất không dùng đến sẽ bị
hư hỏng nhanh chóng” [Henry Kissingger, Ending the Vietnam War, Simon &
Schuster, 2003, trang 496].
[259] Võ Nguyên Giáp, Tổng Hành dinh trong
mùa Xuân Đại Thắng, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia 2000, trang 93.
[260] Võ Nguyên Giáp, Tổng Hành dinh trong
Đại thắng Mùa Xuân, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia 2000.
[261] Lê Duẩn, Nhà xuất bản Chính trị Quốc
gia 2002, trang 664.
[262] Lê Duẩn, Nhà xuất bản Chính trị Quốc
gia 2002, trang 665.
[263] Lê Duẩn, Nhà xuất bản Chính trị Quốc
gia 2002, trang 666.
[264] Tiền thân là Mặt trận Quảng Đà, gồm
Quân đoàn II, Quân đoàn IV, Sư 3 và Quân khu V. Ngày 16-4-1975, lực lượng của
“Cánh quân Duyên Hải” đã đánh vào Bộ Tư lệnh Quân đoàn III Sài Gòn ở Phan Rang,
bắt sống Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi và Chuẩn tướng Không quân Phạm Ngọc Sang
và lúc bấy giờ đã đánh vỡ tuyến phòng thủ Sài Gòn từ xa, đưa một đạo quân gần
bốn vạn người, cùng với 2.500 xe pháo các loại trong đó có gần l00 xe tăng
thiết giáp, 250 xe kéo pháo vào khu vực tập kết.
[265] Điện ngày 7-4-1975 của tướng Giáp
gửi Lê Trọng Tấn:
“Mệnh
lệnh
1-
Thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo táo bạo hơn nữa. Tranh thủ từng giờ từng
phút xốc tới mặt trận, giải phóng Miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng.
2-
Truyền đạt tức khắc đến đảng viên, chiến sĩ.
Văn”.
[265] Trong cuốn Tổng tập Lê Duẩn, cả ông
Lê Hữu Đức và bà Diệu Muội đều nhầm là ngày 29-4-1975.
[267] Trong chiến tranh, Cục Tác chiến là
cơ quan trực tiếp báo cáo tình hình chiến trường và chuẩn bị các tài liệu, kể
cả soạn thảo các nghị quyết cho Quân uỷ và Bộ Chính trị, và các bức điện ký tên
các nhân vật trong Bộ Chính trị. Theo Trung tướng Cục Trưởng Tác chiến Lê Hữu
Đức, trong suốt 55 ngày đêm của Chiến dịch Hồ Chí Minh, chỉ có bức điện ngày
9-3-1975 là do chính tay ông Lê Duẩn viết, “Tất cả những bức điện ký tên Anh Ba
khác đều do cơ quan Tác chiến chúng tôi dự thảo, anh duyệt và ký tên, cơ quan
Tác chiến chuyển qua Cục Cơ yếu điện đi”.
[268] Lê Duẩn, Nhà xuất bản Chính trị Quốc
gia, trang 667.
[269] Cũng năm ấy, ông Phạm Hùng được cử
thay thế Bộ trưởng Nội vụ Trần Quốc Hoàn; Nguyễn Cơ Thạch chính thức làm Bộ
trưởng Ngoại Giao thay thế Nguyễn Duy Trinh; ông Tố Hữu được cử làm Phó Thủ
tướng đặc trách kinh tế.
[270] Khi ấy là uỷ viên dự khuyết Bộ chính
trị.
[271] “Vụ án Chống Đảng” mà Lê Đức Thọ
tiến hành được trợ lý của Tổng bí thư Lê Duẩn, ông Trần Quỳnh, kể: “Đặng Kim
Giang khai, linh hồn của tổ chức là Võ Nguyên Giáp. Họ liên lạc với Đại sứ
Tchecbakov”. Đại sứ Tchecbakov được coi là một “sĩ quan tình báo” của Liên Xô.
Theo Trần Quỳnh thì đích thân Lê Đức Thọ và Trần Quốc Hoàn đã báo cáo với Lê
Duẩn về “vai trò của Võ Nguyên Giáp trong tổ chức chống Đảng này”. Trần Quỳnh
viết: “Lê Đức Thọ và Trần Quốc Hoàn đề nghị kỷ luật những người cầm đầu: Khai
trừ ra khỏi Đảng, cách chức, quản thúc một số, nhưng cho hưởng nguyên các chế
độ đãi ngộ… Riêng về Giáp kỷ luật được đề nghị là khai trừ khỏi Bộ chính trị,
Lê Duẩn không đồng ý. Lê Duẩn nói rằng chúng ta đang cần đến sự giúp đỡ của
Liên Xô trong công cuộc xây dựng Miền Bắc và nhất là trong sự nghiệp giải phóng
Miền Nam. Giáp là người của Liên Xô, nếu kỷ luật Giáp sẽ động đến Liên Xô ảnh hưởng
không nhỏ đến sự viện trợ của Liên Xô. Tôi đề nghị cứ để Giáp ở lại trong Bộ
chính trị. Ta sẽ có cách làm việc với Giáp làm cho sự ở lại và có mặt của Giáp
không gây ra những hậu quả có hại”.
[272] Chỉ có tờ Tổ quốc, cơ quan của Đảng
Xã hội Việt Nam, vào dịp 7-5-1984 vẫn phát hành một số đặc biệt nói về Điện
Biên Phủ, trong đó ca ngợi tài năng và, lần đầu tiên nói đến quyết định “kéo
pháo ra” của tướng Giáp. Tuy tờ Tổ quốc là của Đảng Xã hội, nhưng tổng biên
tập, ông Hàm Châu vẫn là một đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, nên việc ca ngợi
tướng Giáp đã khiến ông Hàm Châu bị Ban Tuyên huấn của Đảng Cộng sản Việt Nam
nhắc nhở. Theo ông Hàm Châu: Ông Phan Quang, vụ trưởng báo chí của Ban Tuyên
huấn Trung ương, gọi ông lên hỏi: “Vì sao đã có chỉ thị không nhắc tên cá nhân
anh Giáp mà Tổ quốc vẫn đưa?”. Chủ trương không nhắc tên Võ Nguyên Giáp trong
các bài kỷ niệm ba mươi năm chiến thắng Điện Biên Phủ là một “chỉ thị miệng”
chỉ được Lê Đức Thọ truyền đạt tới ba cơ quan báo chí lớn: Nhân Dân, Quân đội
Nhân dân và Thông tấn xã Việt Nam. Trong cuộc gặp này, Lê Đức Thọ nói: “Từ nay
đừng bao giờ nhắc đến tên cái ông tướng đội mũ phớt nữa”. Ông Hàm Châu nói:
“Thậm chí, Lê Đức Thọ còn định lấy ngày thành lập đội du kích Bắc Sơn,
14-2-1941, thay vì ngày thành lập Đội tuyên truyền giải phóng quân 22-12-1944
làm ngày thành lập quân đội”. Cho dù “chỉ thị miệng” này ngay sau đó được các
đồng nghiệp ở báo Nhân Dân, Quân đội Nhân dân truyền đi. Nhưng, về lý thì không
thể kỷ luật những người không nhận được lệnh này một cách trực tiếp. Phan Quang
chấp nhận giải trình của Hàm Châu. Ông Hàm Châu nói: “Thâm tâm, chính Phan
Quang cũng không đồng ý với chỉ thị của ông Lê Đức Thọ”.
[273] Nhân sinh nhật lần thứ 75 của Tổng
bí thư Lê Duẩn, báo Nhân Dân số ra ngày 7-11-1982 đăng bài “Sáng tạo, một tấm
gương lớn” của Thép Mới viết về cuộc đời của Tổng bí thư Lê Duẩn. Sau khi nhắc
đến Nguyễn Trãi, Hồ Chí Minh, Thép Mới coi “Đề cương cách mạng miền Nam” như
một loại sách “Bình Mỹ” mà Lê Duẩn đã “thai nghén từ Biên bạch tới Sài Gòn” để
sánh với sách “Bình Ngô” mà Nguyễn Trãi ngồi ở “góc thành Nam, lều một gian”
viết 600 năm trước. Dẫn lại một nhận xét về Lê Duẩn của Hoài Thanh: “Mỗi lần
anh phát biểu ý kiến, chúng ta đều thấy có gì mới và sâu, soi sáng rất nhiều
cho chúng ta”, Thép Mới viết: “Có sức nghĩ của những con người là chỗ dựa cho
mạch nghĩ của cả một thế hệ và là điểm tựa chắc chắn cho cả mai đây”. Từ năm
1984, Ban Bí thư cử một nhóm viết tiểu sử và hồi ký cho Tổng bí thư Lê Duẩn,
nhóm gồm ba người: Thép Mới, Bùi Tín và Đống Ngạc, thư ký riêng của Lê Duẩn.
Nhóm được ông Lê Duẩn trực tiếp kể về mình tại nhà nghỉ Hồ Tây hoặc tại Đồ Sơn.
Cùng nghe có ông Hoàng Tùng, Bí thư Trung ương Đảng. Đến buổi thứ 5 thì Bùi Tín
xin rút. Loạt bài, Thời Thắng Mỹ [đăng 17 kỳ liên tiếp mỗi tuần từ số báo Nhân
Dân ra ngày 21-1-1985], về sau xuất hiện trên báo Nhân Dân chỉ còn đứng tên
Thép Mới.
[274] Trong phần nói về cuộc tập kết năm
1955, Thép Mới viết: “Đến giờ kéo neo tàu chạy, anh Ba nắm tay anh Sáu [Lê Đức
Thọ]: ‘Anh ra thưa với Bác là tất cả đồng bào, đồng chí trong này ngày đêm mong
Bác sống lâu, mạnh khỏe. Anh cho tôi gửi lời chào Bác, anh Trường Chinh và tất
cả các anh ngoài đó. Tình hình này thì dễ đến mười tám, hai mươi năm nữa, anh
em ta mới lại gặp nhau”. Lịch sử Nam - Bắc sau đó đã bị phân chia đúng 20 năm:
1955-1975 như… “tiên tri” của Lê Duẩn.
[275] Thép Mới, Thời Thắng Mỹ, đăng 17 kỳ
liên tiếp mỗi tuần từ số báo Nhân Dân ra ngày 21-1-1985.
[276] Thép Mới, sách đã dẫn.
H.Đ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét