Thứ Sáu, 28 tháng 3, 2014

Giã từ toàn cầu hoá


Giã từ toàn cầu hoá

Thế giới vừa trải qua một chu kỳ năm năm đầy biến động, lồng trong trận Tổng suy trầm kinh tế 2008-2009 và ba năm đình trệ.
RFA đăng bài này ngày 02/01/2013


016_20121231-305.jpg
Hai cô gái trẻ Ấn Độ ở New Delhi đêm 31/12/2012.
AFP photo

Biến cố kéo dài này tất nhiên đã chi phối những tính toán kinh tế của mọi quốc gia và của mọi người trong từng quốc gia.
Hậu quả sẽ ra sao trong mấy năm tới? Vào dịp đầu năm, Diễn đàn Kinh tế tìm hiểu về biến chuyển ấy qua phần trao đổi với chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa.


Nhìn lại 5 năm qua

Vũ Hoàng: Xin kính chào ông Nghĩa. Theo thông lệ, khi mở đầu năm mới, diễn đàn của chúng ta thường nhắc đến yếu tố lạc quan và tích cực cho một vận hội mới. Nhưng những gì xảy ra cho kinh tế thế giới từ mấy năm qua khiến người ta khó thấy lạc quan mà cần nhìn vào những rủi ro có thể xảy ra trong thời gian tới. Vì vậy, chương trình kinh tế đầu tiên của năm 2013 cố phác họa một số viễn ảnh cho thời kỳ trước mặt để còn tự chuẩn bị. Ông nghĩ sao về đề nghị này?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Chúng ta đều ý thức được những giới hạn của con người khi dự báo tương lai, nhất là tương lai kinh tế, vốn tổng hợp sự tính toán của cả triệu cả tỷ tác nhân ở nhiều nơi. Nhưng xuyên qua những chuyển động tưởng như hỗn loạn phi lý người ta vẫn có thể nhìn ra một số yếu tố hợp lý. Sau những năm đầy biến động vừa qua, ta thấy rằng trật tự cũ mà nhiều người tin là vĩnh viễn trường cửu lại bị đào thải và thế giới có thể bước qua một trật tự khác. Vì vậy, mình thử nhìn vào các chỉ dấu tiên báo viễn ảnh mới để còn phần nào tự chuẩn bị lấy thân.
Vũ Hoàng: Như vậy, xin ông khởi đầu bằng cách trình bày lại bối cảnh chung ngõ hầu mình có thể thấy ra một số điều hợp lý giữa những biến động chung.
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Về bối cảnh chung, ta có thể thấy năm năm vừa qua là thời trả nợ sau chu kỳ 30 năm vay mượn quá sức của ba khối kinh tế công nghiệp hoá và giàu có nhất thế giới. Biến cố ấy khởi sự từ đầu năm 2008 và giải thích bao khó khăn dồn dập của ba anh nhà giàu mắc nợ là Nhật Bản, Hoa Kỳ và Âu Châu. Khi các nước giàu có nhất lại thu vén chi tiêu để còn trả nợ thì kinh tế toàn cầu bị suy trầm và rất chậm phục hồi. Đấy là một lẽ.
Thứ hai, bên ngoài kinh tế thì còn chuyện sinh tử là an ninh. Sau 10 năm tập trung vào cuộc chiến chống khủng bố Hồi giáo, Hoa Kỳ ngập nợ phải tìm cách thoát khỏi những khó khăn đó. Nhưng khoảng trống do nước Mỹ để lại trên toàn cầu và các bài toán dồn dập khi phải trả nợ lại là sự cám dỗ cho chính sách bành trướng của Trung Quốc và gây phản ứng phòng thủ từ các quốc gia khác. Cùng những khó khăn kinh tế chung của toàn cầu, phản ứng này có chi phối chiến lược phát triển của các nước. Thứ ba, trong Liên hiệp của 27 nước Âu Châu và khối tiền tệ thống nhất của 17 nước cùng dùng chung đồng Euro, khó khăn tài chính dồn dập trong bốn năm liền cũng gây thất vọng cho nhiều nước và dẫn đến phản ứng quốc gia dân tộc, trong tinh thần xin tạm gọi là "đèn nhà nào nhà ấy rạng, mạng người nào người ấy giữ".
Nói chung là tinh thần bảo thủ và co cụm của nhiều nước trên thế giới nhằm bảo vệ quyền lợi riêng. Nhìn trên toàn cảnh của ngần ấy chuyển động thì ta thấy ra một hậu quả bất ngờ cho cả thế giới, đó là sự thoái lui của trào lưu toàn cầu hóa. Mà điều đáng tiếc này thật ra cũng hợp lý.


Những thay đổi ảnh hưởng kinh tế


image.jpg
Nạn lão hóa dân số ở Trung Quốc. AFP photo
Vũ Hoàng: Ông vừa nói đến một điều rất lạ, thậm chí là nghịch lý. Đó là "điều đáng tiếc mà thật ra cũng hợp lý". Xin đề nghị ông giải thích cho sự hợp lý này.
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thưa rằng trước hết thì con người cũng là một sinh vật kinh tế nên phải thường xuyên ứng xử với hoàn cảnh hay chính sách để tìm lợi ích cao nhất. Nhưng người ta thay đổi với loại đổi thay lâu dài chứ không lụp chụp chạy theo biện pháp hay chính sách ngắn hạn. Vì vậy, sự thay đổi lớn lao này mới chậm xảy ra mà nếu chỉ để ý đến biến cố ngắn hạn thì ta cho là bị bất ngờ. Mà nếu chính sách lại đề ra cho một bài toán ngắn hạn thì có thể gây ra điều mà người ta gọi là "hậu quả bất lường" hay "liều thuốc đổ bệnh". Bây giờ ta mới suy ra khung cảnh toàn cầu trong trường kỳ.
Về trường kỳ, hình thái sinh hoạt kinh tế của các nước có thay đổi và khu vực chế biến của các nước công nghiệp hoá đã thu hẹp và nhường chỗ cho khu vực dịch vụ. Tức là các nước giàu có đã đẩy đầu tư về chế biến cho các nước đang phát triển làm gia công để tìm lợi thế nhân công rẻ và điều ấy có góp một phần cho hiện tượng toàn cầu hóa và tự do chuyển dịch tư bản.
Thứ hai, trong trường kỳ, ta còn để ý đến sự thay đổi về "thuật lý" hay "technology" là chữ tôi đề nghị về cách tổ chức khoa học kỹ thuật, tương tự như sinh lý hay vật lý trong các bộ môn khoa học kia. Thay đổi về thuật lý có thể là kết quả của bài toán an ninh hay quân sự mà cũng là hậu quả của cơ cấu phí tổn vì người ta cần tìm ra cách sản xuất nào rẻ hơn. Rốt cuộc thì tiến bộ thuật lý cũng đảo lộn luôn cơ cấu phí tổn ấy, thí dụ như về giá biểu của các loại nguyên nhiên vật liệu. Một thí dụ khác là sự cải tiến về thuật lý với máy điện toán và công nghệ tín học làm thay đổi quy trình sản xuất và nâng cao năng suất kinh tế nhưng cũng dẫn đến các bài toán xã hội là thất nghiệp, giáo dục và đào tạo cho các gia đình hay chính quyền.
Vũ Hoàng: Đó là những chuyển động sâu xa về xã hội với ảnh hưởng dội ngược vào kinh tế. Thưa ông, ngoài ra còn có những thay đổi gì khác nữa?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thưa rằng còn có sự đổi thay chậm rãi mà mãnh liệt hơn, đó là cơ cấu dân số trong các nước.
Nói chung, dân số địa cầu đã tăng vọt từ sau Thế chiến II nhưng nay đã đi hết chu kỳ và giảm dần. Càng tiến hóa thì càng giảm mạnh và bị nguy cơ gọi là lão hóa dân số. Sự thay đổi ấy cũng chi phối tính toán lời lãi của doanh nghiệp hay chiến lược kinh tế của quốc gia. Một cách cụ thể, lương bổng cho nhân công các nước đang phát triển không còn rẻ như trước khi các nước này trở thành "tân hưng", nghĩa là bắt đầu phát triển.
Ngoại lệ ở đây là Trung Quốc, có dân số cao nhất địa cầu nhưng lãnh đạo tiêu cực và lạc hậu lại lầm tưởng rằng mỗi người sinh ra là một miệng ăn nên chủ động kiểm soát dân số qua kế hoạch mỗi hộ một con. Hậu quả là dân số cũng bắt đầu bị lão hóa, là người dân chưa giàu đã già, và lợi thế về nhân công nhiều và rẻ nay mất dần cho các nước khác vì doanh nghiệp của các nước tiên tiến đi tìm nơi rẻ hơn, có năng suất cao hơn. Mà cao nhất vẫn là trong các nước tiên tiến.


Thoái trào toàn cầu hóa


000_DV1076362-250.jpg
Tổng thống Mỹ Barack Obama nói chuyện với Đại diện Thương mại Mỹ Ron Kirk (P) tại diễn đàn APEC tại Honolulu, Hawaii, hôm 12/11/2011. AFP photo
Vũ Hoàng: Sau khi lần lượt tổng kết lại các chuyển động lớn của các nước trên thế giới để dẫn về viễn ảnh trước mắt là sự thoái trào của hiện tượng toàn cầu hóa, ông có thể đơn cử một số dấu hiệu tiên báo cái trật tự đáng tiếc mà có lẽ hợp lý ấy không?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thưa rằng đầu tiên, chẳng còn ai nói về Vòng Đàm Phán Doha do Tổng thống George W. Bush đề nghị với Tổ chức Thương mại Thế giới WTO vào Tháng 10 năm 2001 để phát triển ngoại thương của các nước nghèo trong tinh thần ngoại thương góp phần gia tăng lợi ích cho mọi quốc gia. Vòng đàm phán ấy thực tế bị khai tử và cơ chế WTO chỉ còn là nơi giải quyết quá nhiều vụ tranh tụng về mậu dịch giữa các hội viên.
Kế tiếp, chúng ta có Hiệp định Đối tác Xuyên Thái bình dương mà hai Tổng thống Mỹ đã liên tục đề cao từ 2008 đến 2010 và muốn sớm hoàn thành để phát triển ngoại thương và kinh tế giữa các nước trong vành cung Thái bình dương. Hiệp định ấy bị trở ngại và ngược lại, người ta lo sợ sự lớn mạnh của phản ứng bảo hộ mậu dịch với nhiều đòn trả đũa về ngoại thương để từng quốc gia bảo vệ quyền lợi riêng.
Giữa các nước đã phát triển với nhau, khó khăn chồng chất bên trong khiến xứ nào cũng tìm cách in tiền, hạ lãi suất và tìm lợi thế của đồng bạc rẻ để xuất khẩu và thoát hiểm. Hiện tượng ấy gây thêm vấn đề ngoại thương và trước hết thu hẹp nguồn tư bản có thể đầu tư vào các nước đang phát triển. Đầu tư trực tiếp giảm sút càng làm các nước nghèo gặp trở ngại khi thị trường xuất khẩu vào các nước giàu cũng co cụm dần. Nếu xứ nào cũng muốn bán hàng ra ngoài thì ai mua bây giờ? Tranh chấp mậu dịch vì vậy chỉ tăng chứ không giảm và toàn cầu hóa bị đẩy lui...
Vũ Hoàng: Thưa ông, riêng tại Hoa Kỳ, là quốc gia có thị trường nhập khẩu lớn nhất thế giới, người ta có thấy ra sự thoái trào ấy không?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Người ta thấy ra rõ ràng nhất là tại Hoa Kỳ, sau đó mới tới Âu Châu, Nhật Bản hay Trung Quốc, là những khối kinh tế dẫn đầu thế giới.
Trên chính trường Mỹ, tự do mậu dịch hay toàn cầu hóa hết được coi là lý tưởng mà còn bị kết án là nguyên nhân gây ra thất nghiệp hay thiệt hại cho kinh tế và nhân công Mỹ. Dù sự thật chả đơn giản như vậy, lý luận ấy được rất nhiều người ủng hộ. Trong khi đó, về thực tế thì nhiều doanh nghiệp Mỹ hết thấy thị trường Trung Quốc là hấp dẫn và bắt đầu triệt thoái đầu tư để dồn qua xứ khác. Nhưng đáng chú ý nhất là để sản xuất lấy ở nhà, nhờ tiến bộ mới về thuật lý lẫn thay đổi về cơ cấu phí tổn. Nói chung, nước Mỹ hết tìm nơi làm gia công ở bên ngoài, hoặc chỉ tìm những công đoạn rẻ nhất ở xứ khác. Dù kinh tế Mỹ chỉ lệ thuộc bên ngoài có chừng 12% của tổng số tiêu thụ đấy vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất địa cầu. Nếu doanh nghiệp Mỹ tính lại cho thời gian năm bẩy năm tới thì kinh tế thế giới sẽ bị thiệt hại.
Vũ Hoàng: Câu kết cho đầu năm là gì thưa ông?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi mong rằng sự thay đổi này chỉ là trung hạn tức là cho năm bảy năm mà thôi vì lợi thế của toàn cầu hóa là điều có thật và khó phủ nhận. Nhưng mình vẫn phải tự chuẩn bị cho tình huống đó. Riêng về Việt Nam thì với thị trường gần 90 triệu dân, Việt Nam nên sớm nghĩ đến nâng cao khả năng tiêu thụ của thị trường nội địa thay vì chỉ trông chờ vào xuất khẩu và đầu tư của công quyền. Đây cũng là cơ hội nhìn lại lợi thế tương đối của mình trong dài hạn, không thể là nhân công rẻ mà còn tùy vào năng suất, tức là giáo dục và đào tạo. Đấy cũng là lời chúc đầu năm của chúng ta cho thế hệ trẻ tại Việt Nam.
Vũ Hoàng: Xin cảm tạ ông Nghĩa và kính chúc ông một năm an hảo.


Theo dòng thời sự:












Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét