Chủ Nhật, 1 tháng 6, 2014

Công hàm Phạm Văn Đồng 1958 có hiệu lực pháp lý hay không?





Công hàm Phạm Văn Đồng 1958 
có hiệu lực pháp lý hay không?
Trung Quốc vừa qua lại đưa ra Công hàm Phạm Văn Đồng năm 1958 để biện luận cho hành động của họ tại khu vực Biển Đông. Bộ Ngoại giao Việt Nam cũng đã họp báo phản đối cho rằng công hàm đó vô hiệu. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng nói đến việc kiện Trung Quốc về việc xâm chiếm biển đảo của Việt Nam.
Gia Minh đặt một số câu hỏi liên quan với nhà nghiên cứu Trương Nhân Tuấn hiện đang ở tại Pháp về các vấn đề đó:
Tùy tư cách pháp nhân
Gia Minh: Ông không đồng ý với một số ý kiến cho rằng Công Hàm Phạm Văn Đồng năm 1958 là vô hiệu, vậy những điểm chính ông muốn nêu ra là gì?
Trương Nhân Tuấn: Công hàm 1958 có hiệu lực ràng buộc pháp lý hay không, theo tôi, là do quan điểm của nhà cầm quyền Việt Nam hôm nay về tư cách pháp nhân của thực thể Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa trong thời kỳ từ 1954 đến 1975.
Theo như lập trường của Việt Nam hôm nay, qua lời tuyên bố của các viên chức bộ ngoại giao phát biểu trong hôm họp báo vừa rồi, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Việt Nam Cộng Hòa ngày trước là hai quốc gia độc lập, có chủ quyền. Trên quan điểm này thì tôi cho rằng công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng có hiệu lực pháp lý ràng buộc.
Vì sao? Tại vì nếu Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là một quốc gia độc lập có chủ quyền, thì công hàm của ông Đồng là một tuyên bố đơn phương, nội dung nhìn nhận tuyên bố về chủ quyền và hải phận của Trung Quốc.
Công hàm 1958 có hiệu lực ràng buộc pháp lý hay không, theo tôi, là do quan điểm của nhà cầm quyền VN hôm nay về tư cách pháp nhân của thực thể VNDCCH trong thời kỳ từ 1954 đến 1975.
- Trương Nhân Tuấn
Để dễ hiểu, tôi lấy thì dụ về cái tuyên bố đơn phương về vùng “nhận diện phòng không của” Trung Quốc hôm 23 tháng 11 năm ngoái 2013. Tuyên bố này, một cách tổng quát, thì phù hợp với luật pháp và tập quán quốc tế. Nếu không có nước nào lên tiếng phản đối, hay bảo lưu một điều khoản nào, thì tự động tuyên bố “vùng nhận diện phòng không” của Trung Quốc có hiệu lực. Ta thấy Nhật, Mỹ, Nam Hàn cùng nhiều nước khác đồng loạt lên tiếng phản đối. Các nước này phản đối vì chồng lấn vùng nhận diện phòng không của nước họ đã đặt ra từ trước, trong thời chiến tranh lạnh, mặt khác, còn có chồng lấn do tranh chấp chủ quyền giữa Nhật và Trung Quốc tại quần đảo Điếu Ngư. Các nước khác thì phản đối điều khoản mà trong đó Trung Quốc đe dọa sẽ sử dụng vũ lực nếu vùng “nhận diện phòng không” của họ bị xâm phạm. Những nước không lên tiếng, thì tôn trọng tuyên bố này. Mình thấy hôm nay, các hãng hàng không dân sự, kể cả của Nhật hay của Mỹ, cũng hải tôn trọng vùng trời của Trung Quốc.
Trở lại công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng. Ta biết tuyên bố của Trung Quốc về lãnh thổ và hải phận ngày 4-9-1958 là phù hợp với các công ước quốc tế vềBiển đã được một số nước ký kết vào tháng 4 cùng năm, trong đó có Trung Hoa Dân Quốc, tức Đài Loan hiện nay. Vì chính quyền Bắc Kinh không phải là đại diện nước Trung Hoa ở LHQ do đó tuyên bố của Trung Quốc là cần thiết. Tương tự như tuyên bố về “vùng nhận diện phòng không” vừa rồi, nếu không ai lên tiếng phản đối, thì tự động nó có hiệu lực.
Tức là, thay vì phản lên tiếng phản đối hay bảo lưu chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa, nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa lại lên tiếng ủng hộ nó.
Hiện nay, các viên chức cũng như học giả Việt Nam cố gắng bào chữa ràng công hàm 1958 của ông Đồng chỉ công nhận hải phận 12 hải lý của Trung Quốc, chứ không công nhận chủ quyền của Trung Quốc tại Hoàng Sa và Trường Sa. Những lý lẽ bào chữa này không hề thuyết phục. Giả sử rằng công hàm này không có hiện hữu, tức là ông Đồng chưa bao giờ ký công hàm này, thì thái độ im lặng của nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa trước tuyên bố đơn phương, công khai của Trung Quốc, được hiểu như là sự “im lặng đồng tình”.
Còn nếu quan niệm rằng, trong khoản 1954 và 1975 nước Việt Nam bị phân chia theo hiệp định Genève 1954 thành hai vùng lãnh thổ tại vĩ tuyến 17, lần lượt mang tên: Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Việt Nam Cộng Hòa. Vĩ tuyến 17 là đường ranh quân sự tạm thời, không phải là đường phân định biên giới về chính trị hay lãnh thổ.
Untitled-2.jpg
Công hàm Phạm Văn Đồng 1958
Nội dung Hiệp định Genève xác nhận Việt Nam là nước độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, có chủ quyền và thống nhất. Điều này được tái xác nhận theo Hiệp định Paris năm 1973.
Điều này thể hiện lên thực tế. Trong khoảng thời gian từ 1954 đến 1973, không có bất kỳ quốc gia nào trên thế giới nhìn nhận sự hiện hữu của hai quốc gia Việt Nam. Khối Tư bản nhìn nhận Việt Nam Cộng Hòa là đại diện của nước Việt Nam duy nhất. Khối XHCN công nhận Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là đại diện nước Việt Nam duy nhất. Nước này nhìn nhận phía này thì không nhìn nhận phía kia, hay ngược lại.
Trên tinh thần một nước Việt Nam “độc lập, có chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ” của các hiệp ước 1954 và 1973, thì bất kỳ các tuyên bố, các hành vi đơn phương của một bên (Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Việt Nam Cộng Hòa), nếu có làm tổn hại đến việc toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, chúng đều không có giá trị.
Công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng viết trong khoản thời gian 1954-1973, có liên quan đến chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, đi ngược lại tinh thần hai Hiệp định 1954 và 1973, do đó không có giá trị pháp lý ràng buộc.
Quan điểm này phù hợp với thực tế lịch sử, thực tế pháp lý của hai miền Nam Bắc Việt Nam trong thời kỳ 1954-1975. Và cũng là một quan điểm có lợi, vì Việt Nam gỡ bỏ được những hứa hẹn, những cam kết mà nhà cầm quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã thể hiện với nhà cầm quyền Trung Quốc trong quá khứ. Tôi vừa mới gởi một lá thư không niêm, gởi lên TT Nguyễn Tân Dũng với nội dung tương tự. Hy vọng Việt Nam kịp thời thay đổi lập trường của mình để có một tư thế mạnh hơn, nếu vấn đề tranh chấp được đưa ra một trọng tài quốc tế để phân xử.
Kiện Trung Quốc như thế nào?
Gia Minh: Theo ông biện pháp kiện Trung Quốc từ phía Việt Nam hiện nay cần tiến hành ra sao và kiện ra các tòa án nào?
Trương Nhân Tuấn: Trước hết là mình phải biết phía Trung Quốc họ bảo lưu ở LHQ các điều nào, từ đó mình mới biết Việt Nam có thể kiện ở các điều gì, sau đó là kiện ra tòa án nào.
Theo tôi biết, năm 2006 Trung Quốc có bảo lưu ở LHQ, là họ không chấp nhận bất kỳ thủ tục nào, qui định theo mục 2, Phần XV của Công ước, đối với tất cả các loại tranh chấp được ghi ở các khoản a), b) và c) của điều 298 của Công ước.
Tức là Trung Quốc không nhìn nhận thẩm quyền của Tòa liên quan các vụ tranh chấp chủ quyền, cũng không nhìn nhận trọng tài để phân định ranh giới trên biển.
Tức là, trong vụ giàn khoan 981, Việt Nam không thể kiện Trung Quốc ra Tòa về tranh chấp chủ quyền các đảo, cũng không thể kiện để nhờ phân định ranh giới biển, thí dụ giữa đảo Hải Nam và bờ biển Việt Nam. Điều duy nhất mà Việt Nam có thể kiện là về hiệu lực các đảo Hoàng Sa. Nhưng mà nếu Việt Nam đệ đơn kiện về điều này thì Việt Nam mặc nhiên nhìn nhận chủ quyền của Trung Quốc tại quần đảo Hoàng Sa rồi!
Trước hết là mình phải biết phía Trung Quốc họ bảo lưu ở LHQ các điều nào, từ đó mình mới biết Việt Nam có thể kiện ở các điều gì, sau đó là kiện ra tòa án nào.
- Trương Nhân Tuấn
Gia Minh: Vụ kiện nếu Việt Nam tiến hành sẽ khác vụ kiện mà Philippines đang kiện Trung Quốc về tranh chấp lãnh hải ở khu vực Biển Đông ra sao?
Trương Nhân Tuấn: Thì nếu kiện, Việt Nam sẽ kiện tương tự như Philippines mà thôi. Có điều Việt Nam sẽ không có được tư thế thoải mái như là Philippines.
Philippines kiện Trung Quốc gồm 10 điều, nội dung đại khái: kiện về yêu sách đường 9 đoạn của Trung Quốc, về quyền chiếm hữu các cấu trúc địa lý lúc chìm lúc nổi ở trong hải phận của Philippines, về việc chiếm đóng và xây dựng trên các bãi lúc chìm lúc nổi, về hiệu lực của các bãi đá, về quyền tự do hàng hải…
Còn Việt Nam kiện, xem lại danh sách bảo lưu của Trung Quốc, nếu không lầm thì Việt Nam sẽ chỉ có thể kiện Trung Quốc về hiệu lực các đảo thuộc Hoàng Sa mà thôi. Ở đây là hiệu lực đảo Tri Tôn. Mà khi làm điều này, như đã nói, gián tiếp Việt Nam lại công nhận chủ quyền của Trung Quốc tại quần đảo Hoàng Sa rồi. Vì nếu quần đảo Hoàng Sa là của mình, thì mắc mớ gì mình đi kiện?
Mặt khác, khi kiện như vậy, Việt Nam cũng làm một cuộc phiêu lưu khác không kém phần nguy hiểm. Là vì Việt Nam cũng chủ trương các đảo Hoàng Sa có hiệu lực tối đa, theo như các bản đồ thấy trên báo chí thế giới hiện nay, hay theo một tuyên bố về hải phận của Việt Nam từ thập niên 80.
Thói thường thì mình đâu thể cấm người khác có chủ trương giống như mình? VN đã từng chủ trương các đảo có hiệu lực tối đa, thì bây giờ đâu thể nào kiện Trung Quốc khi Trung Quốc cũng chủ trương y như vậy được?
Vì thế tình hình Việt Nam hôm nay thật là tiến thoái lưỡng nan.
Vì thế để thoát ra khỏi tình thế này, nhà nước Việt Nam nên thực hành ý kiến của tôi vừa nói ở trên. Tức là tuyên bố Công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng viết trong khoản thời gian 1954-1973, vì có liên quan đến chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, vì đi ngược lại tinh thần hai Hiệp định 1954 và 1973, do đó không có giá trị pháp lý ràng buộc.
Sau đó, Tôi nghĩ rằng Việt Nam vẫn còn phương pháp để mà thoát ra khỏi cảnh khó khăn hôm nay.
Gia Minh: Ý kiến người dân trong nước và những cộng đồng người Việt ở nước ngoài sẽ có giá trị ra sao khi được đưa vào vụ kiện?
Trương Nhân Tuấn: Theo tôi, ý kiến của cộng đồng người Việt nước ngoài cũng như dư luận quốc tế sẽ ảnh hưởng đến thái độ của Trung Quốc. Cho dầu thế nào thì Trung Quốc cũng không thể bất chấp dư luận quốc tế, trong khi khu vực biển Đông là nơi vận chuyển hàng hóa khoảng 50% số lượng thế giới. Nếu khu vực bất ổn, kinh tế cả thế giới bị ảnh hưởng, chắc chắn các nước sẽ làm áp lực. Mình cũng thấy Mỹ và Nhật họ cũng ủng hộ Việt Nam, mặc dầu còn trong chừng mực, nhưng là điều tốt.
Theo tôi, việc đi kiện là thiên nan vạn nan, nhưng việc chuẩn bị đi kiện, khua chuông gióng trống lên cho mọi người biết mình đi kiện, sẽ tạo cho Việt Nam một tư thế chính đáng. Quan trọng là việc hóa giải công hàm 1958. Việc này tạo cho Việt Nam một tư thế thoải mái hơn về chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa. Việt Nam có thể có những hành động mạnh bạo hơn trong việc đáp trả những hành vi côn đồ của Trung Quốc, như đâm chìm tàu của Việt Nam. Và đó sẽ là hành động tự vệ chính đáng, được LHQ nhìn nhận.
Gia Minh: Cám ơn ông Trương Nhân Tuấn.

<

Thụy Điển nói về xung đột Biển Đông


Thụy Điển nói về xung đột Biển Đông  

Cập nhật: 14:15 GMT - thứ năm, 29 tháng 5, 2014





Kỷ niệm 25 năm Thiên An Môn




























Thử với "nghe bằng cách khác " (Object -BBC)













Dùng công pháp quốc tế phá mưu TQ



Dùng công pháp quốc tế phá mưu TQ



GS-TS luật Nguyễn Vân Nam, CHLB Đức,


Không còn nghi nghờ gì nữa, mục tiêu của Trung Quốc là kiểm soát để tiến đến thôn tính Biển Đông.
Cũng có một số ý kiến quốc tế cho rằng Trung Quốc tính già hoá non trên Biển Đông, và đang lộ ra nhiều điểm sai trái, kẽ hở.

Thật ra Trung Quốc có rất ít kẽ hở. Họ đã rào trước đón sau rất kỹ về mặt pháp lý để hầu như không thể bị kiện; đồng thời kiên định thực hiện chiến lược giải quyết tranh chấp song phương nhằm chủ động phòng ngừa những khả năng bị kiện còn lại khác.
Ngày 25/8/2006, Trung Quốc gửi Liên Hiệpp Quốc tuyên bố bảo lưu theo Điều 298 của UNCLOS, không chấp nhận cả 4 cơ quan tài phán giải quyết tranh chấp qui định tại Điều 287 khoản 1 UNCLOS đối với tất cả các loại tranh chấp được quy định tại điểm a, b, c Khoản 1 Điều 298; cũng như loại trừ quyền tài phán của Tòa án biển quốc tế đối với toàn bộ tranh chấp liên quan đến chủ quyền các đảo.
Như vậy, thực tế Trung Quốc đã loại trừ hầu hết các loại tranh chấp trên Biển Đông ra khỏi quyền tài phán của một cơ quan tài phán quốc tế.

Song phương và hai Đảng

Những thoả thuận song phương với Trung Quốc rất nguy hiểm, vì họ có thể dùng nó để loại trừ các nghĩa vụ quốc tế của mình.
Nguyên tắc tối cao của công pháp quốc tế là tôn trọng chủ quyền quốc gia, tôn trọng sự thoả thuận giữa các nước, nên những thoả thuận song phương như vậy có khả năng và hiệu lực loại trừ những nghĩa vụ quốc tế mà một trong hai nước đã ký kết

Tức là với một thoả thuận song phương, Trung Quốc có thể loại trừ được những điều mà họ muốn loại trừ, nhưng không thể hoặc chưa kịp loại trừ khi ký kết các thỏa thuận quốc tế.



Ngư dân Việt Nam 'hoàn toàn có thể khởi kiện Trung Quốc'
Chẳng hạn, nếu Việt Nam và Trung Quốc thỏa thuận không sử dụng quân đội và vũ khí trong tranh chấp lãnh thổ, nghĩa là chỉ đồng ý không sử dụng một trong những hình thức sử dụng vũ lực thôi, thì điều đó sẽ loại trừ nghĩa vụ không được sử dụng vũ lực nói chung (không được sử dụng bất cứ hình thức vũ lực nào) theo Điều 279 UNCLOS và Điều 2 khoản 4 Hiến chương LHQ mà VN và TQ phải tuân thủ.
Ngoài ra, Trung Quốc còn có thể ép Việt Nam thực hiện những điều cam kết song phương với họ. Nhưng chính họ lại có thể không thực hiện, bởi trong quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc, có những loại thỏa thuận song phương không có hiệu lực quốc tế chẳng hạn thỏa thuận giữa hai đảng Cộng sản và do đó họ không sợ bị phán xử.
Điều này là cực kỳ nguy hiểm. Chính vì vậy, việc cần làm hiện này là phải đưa Trung Quốc vào một cơ chế giải quyết tranh chấp đa phương trong công pháp quốc tế.

Cơ hội cho mục tiêu lớn

Thời điểm Trung Quốc đưa giàn khoan vào là khá bất ngờ, khi mọi người có cảm giác tình hình có vẻ yên ổn. Nhưng đó có thể là phép thử đầu tiên xem phản ứng của Việt Nam và công luận quốc tế, để TQ thu thập và đánh giá đầy đủ thông tin cần thiết cho những bước nghiêm trọng tiếp theo.
Cho nên, mục tiêu của Việt Nam không thể chỉ là đuổi giàn khoan xâm phạm chủ quyền vùng biển Việt Nam. Đây là cơ hội để Việt Nam đạt được các mục tiêu lớn hơn. Buộc Trung Quốc vào một cơ chế giải quyết tranh chấp đa phương, đó là mục tiêu quan trọng đầu tiên.
Mục tiêu thứ hai là bẻ gãy sự tự tin ngạo mạn kiểu Trung Quốc, khiến họ phải thay đổi chiến lược ở biển Đông. Mục tiêu thứ ba là phòng vệ chủ động. Khi Trung Quốc bị buộc phải tham gia cơ chế giải quyết tranh chấp của toà án quốc tế, họ sẽ không thể dùng vũ lực được nữa.

Theo Hiến chương Liên hiệp quốc và UNCLOS, khi toà án đang thụ lý giải quyết tranh chấp, các bên có nghĩa vụ không được làm tình hình nghiêm trọng hơn. Nghĩa là với đơn kiện như vậy, Trung Quốc bị buộc không được dùng vũ lực hoặc các mưu mô khác có khả năng làm hiện trạng bị tồi tệ thêm.
Theo Điều 287 khoản 1 UNCLOS khi xẩy ra tranh chấp, các nước thành viên có thể chọn bốn cơ quan tài phán: Toà án quốc tế ở Hà Lan (International Court of Justice, ICJ); Toà án luật biển quốc tế (International Tribunal for the Law of the Sea, ITLOS) ở Hamburg, Đức; Toà trọng tài theo phụ lục 7 của UNCLOS; và Toà trọng tài theo phụ lục 8 cho những tranh chấp đặc biệt.
Mới nghe thì rất dễ, nhưng không hề đơn giản: Toà ICJ ở Hà Lan chỉ có thẩm quyền xét xử nếu được cả hai bên cùng công nhận thẩm quyền.
Về nguyên tắc, các nước ký UNCLOS đều chịu phán quyết của toà án luật biển quốc tế. Nhưng mỗi nước khi ký UNCLOS đều có quyền tuyên bố bảo lưu, không chấp nhận thẩm quyền phán xử của toà án quốc tế trong những lĩnh vực nhất định. Đây là trường hợp của Trung Quốc với tuyên bố bảo lưu hợp lệ theo Điều 298 UNCLOS .
Do đó, trước tiên, đơn kiện của Việt Nam phải không lọt vào vùng loại trừ của Trung Quốc. Thứ hai, đơn kiện này phải được một cơ quan tài phán quốc tế dễ dàng chấp nhận. Đây là cái khó, nhưng có giải pháp.
Việt Nam phải kiện Trung Quốc vi phạm một nghĩa vụ căn bản của thành viên Liên Hiệp quốc mà Trung Quốc không thể loại trừ. Đó chính là khoản 4 điều 2 Hiến chương Liên hiệp quốc và điều 279 UNCLOS.
Các điều khoản này đều nhấn mạnh rằng các nước thành viên có nghĩa vụ giải quyết tranh chấp bằng con đường hoà bình, không được sử dụng vũ lực, và nghĩa vụ này không bị loại trừ bởi bất kỳ tuyên bố nào.
Thế nào là sử dụng vũ lực (use of force) trong quan hệ quốc tế, thì vẫn còn tranh cãi. Và bởi vì còn tranh cãi, nên cần phải có cơ quan tài phán quốc tế độc lập. Đó chính là thuận lợi cho Việt Nam. Các hành vi sử dụng vũ lực này là dùng tàu hải giám, hải cảnh, tuần ngư … thuộc sở hữu nhà nước Trung Quốc phá hỏng, đánh chìm tàu Việt Nam.
Nghiêm trọng hơn là tàu của Trung Quốc đã gây thương tích cho con người.
Như vậy, chúng ta có thể khởi kiện Trung Quốc sử dụng vũ lực vi phạm khoản 4 điều 2 Hiến chương Liên hiệp quốc và điều 279 UNCLOS ra toà án luật biển quốc tế. Nội dung kiện này không nằm trong vùng loại trừ của Trung Quốc. Họ có thể không đồng ý.
Nhưng theo quy định của UNLOS, nếu một bên không đồng ý thì phải chuyển qua toà trọng tài theo phụ lục 7. Toà trọng tài này sẽ không thể tuyên là việc sử dụng vũ lực không thuộc thẩm quyền xét xử của mình, bởi đó là nghĩa vụ căn bản mà Trung Quốc không thể loại trừ.
Ngoài kiện kết tội, Việt Nam còn có thể khởi kiện yêu cầu xác định hành vi. Đó là yêu cầu toà án luật biển quốc tế khẳng định hành vi tàu Trung Quốc đâm vào làm hư hỏng tàu Việt Nam, gây thương tích cho người Việt Nam là hành vi sử dụng vũ lực.
Trong đó, đặc biệt là yếu tố đã gây tổn thương đến con người. Đây là trường hợp lý giải và áp dụng UNCLOS thuộc thẩm quyền của toà án luật biển. Ở nước ngoài, kiểu kiện yêu cầu toà án khẳng định một hành vi, một sự việc như vậy khá phổ biến (kiện không có bị đơn).
Để giải quyết, toà sẽ phải mời Trung Quốc, nhưng không phải trong tư cách bị đơn. Và như thế, họ vẫn bị buộc phải tham gia vào cơ chế giải quyết tranh chấp đa phương.
Đây là một giải pháp khởi kiện tốt nhất, vì khả năng thắng lợi rất cao và đặc biệt là không làm Trung Quốc mất mặt. Sau khi toà ra phán quyết hành vi vũ lực của Trung Quốc, nếu thấy cần thiết, chúng ta có thể sẽ tiếp tục khởi kiện kết tội họ.
Cũng có khả năng dù toà phán quyết thế nào, Trung Quốc vẫn cậy thế nước lớn, không chấp nhận và cứ làm theo ý chí của mình. Nhưng với việc khởi kiện, Việt Nam đã đập nát sự tự tin của họ, buộc họ phải bị động thay đổi chiến lược, chứ không thể hoàn toàn hành động ngang ngược, trâng tráo theo ý mình.
Trung Quốc khó có thể còn lu loa nói càn như ‘rất ngạc nhiên, sửng sốt’. Họ sẽ chùn tay trong hành động làm tình hình tồi tệ thêm …
Với Việt Nam, kiểu kiện thế này thuận lợi về mặt thủ tục hình thức, nhưng cái cơ bản nhất và khó nhất là cách sử dụng ngôn ngữ pháp lý quốc tế và lập luận. Đây là kiểu kiện liên quan đến một khái niệm căn bản trong quan hệ quốc tế và khái niệm này vẫn còn chưa được định nghĩa thống nhất, rõ ràng.
Thế nào là sử dụng vũ lực? Vũ lực là gì? Tuy nhiên, nếu Trung Quốc đã gây ra tổn thương đối với con người, mà cụ thể ở đây là các kiểm ngư và ngư dân, thì rất nghiêm trọng. Nó là một yếu tố quan trọng cấu thành hành vi sử dụng vũ lực, không thể chối cãi.

Ngư dân nhờ luật pháp quốc tế

UNLOS bảo vệ rất chặt chẽ quyền đánh cá. Khoản 2 điều 20 quy chế toà án luật biển quốc tế ghi rõ đây toà án quốc tế (duy nhất) cho phép các chủ thể không phải là nhà nước có thể khởi kiện đối với các tranh chấp liên quan đến cách hiểu và áp dụng UNLOS. Một thuận lợi lớn mà Việt Nam chưa vận dụng.
Trung Quốc đang cản trở tự do đánh bắt, gây thiệt hại đến tài sản và tính mạng ngư dân. Nếu soi vào UNLOS thì Trung Quốc có rất nhiều vi phạm. Nhưng điều chủ yếu ở đây là phải xem xét kỹ với những hành vi sử dụng vũ lực đó, ngư dân Việt Nam đã có thể khởi kiện được Trung Quốc chưa?
Cá nhân ngư dân hoặc qua các hiệp hội nghề, tổ chức nghề cá đều có thể khởi kiện được.
Tuy nhiên, dù là cá cá nhân hay hiệp hội, tổ chức nghề cá thì khi ra toà án luật biển quốc tế họ cũng gặp khó khăn lẫn thuận lợi như nhà nước tiến hành kiện.
Nhưng nếu biết lập luận, có thể họ sẽ không rơi vào những trường hợp tuyên bố loại trừ của Trung Quốc.
Ở đây, khó khăn lớn nhất đối với ngư dân Việt Nam là quá trình thu thập chứng cớ. Ngư dân đi đánh cá bị tàu Trung Quốc đâm hư hỏng, phun vòi rồng nước, bắn cháy, cướp tài sản và hải sản, thì phải thu thập được chứng cớ.
Đặc biệt, những chứng cớ đó phải được lấy theo chuẩn mực quốc tế. Nhà nước, các hội đoàn và nhân dân cả nước có thể hỗ trợ ngư dân bằng kinh phí, trang bị máy móc đủ điều kiện để thu thập chứng cớ, chứ bản thân ngư dân là rất khó tự thân xoay sở.
Tuy nhiên, ngư dân Việt Nam cũng có thuận lợi. Mặc dù Trung Quốc đã có bảo lưu kín kẽ, nhưng câu hỏi đặt ra ở đây là: quyền bảo lưu này có hiệu lực đối với nhà nước Trung Quốc chỉ khi nguyên đơn là một Nhà nước, hay cả khi là ngư dân?
Thường thì sự rõ ràng là tốt, nhưng về pháp lý đôi khi không rõ ràng cũng là thuận lợi cho mình.
Cái khó của Việt Nam hiện nay là sự loại trừ của Trung Quốc, chứ Việt Nam không sợ không đủ cơ sở lập luận.
Bản thân ngư dân Viêt Nam, hay tổ chức nghề cá rất khó tự làm hồ sơ kiện Trung Quốc.
Họ cần được giúp đỡ của những luật sư thật sự thông thạo công pháp quốc tế, hướng dẫn cụ thể về trình tự lấy chứng cứ, cách lấy, và ở mỗi loại chứng cứ thì điểm gì là điểm không thể không có.
Sau khi ngư dân thu thập xong chứng cứ, nên gửi đến luật sư để đánh giá đã đủ chưa. Nếu đủ sẽ phát đơn khởi kiện. Và họ nên uỷ quyền cho một công ty luật nước ngoài khởi kiện đến toà án biển quốc tế.
Bài viết thể hiện quan điểm của giáo sư-tiến sỹ luật Nguyễn Vân Nam, Đại học Humbold, CHLB Đức, hiện đang hành nghề tại TP Hồ Chí Minh.
--------------------------------




VN cần 'bà con xa' hay 'láng giềng gần'?






VIỆT NAM cần 'BÀ CON XA'
hay 'LÁNG GIỀNG GẦN' ?
Phạm Chí Dũng - TP HCM

 
Quan hệ VN và TQ đang căng thẳng vì vụ giàn khoan
Không phải ngẫu nhiên và cũng chưa có gì chứng tỏ thiện ý khi An Ninh Thủ Đô vừa có bài “Các nghị sĩ hối thúc chính quyền Mỹ cứng rắn trước hành động nguy hiểm của Trung Quốc”.
Trang báo thường chiếm một vị trí xứng đáng trong danh mục bán chỉ định của báo đảng và luôn công kích phong trào dân chủ nhân quyền trong nước cùng “sự can thiệp thô bạo và trắng trợn của Mỹ vào Việt Nam” gần đây đã bộc lộ nỗi âu lo lẫn sốt ruột không thể che giấu: hơn bao giờ hết, giới lãnh đạo Việt Nam lại cần đến “bà con xa” hơn là “láng giềng gần”.
Lo âu và rối loạn:

Công tâm mà xét, phép thử Bắc Kinh mang tên giàn khoan Haiyang Shiyou 981 ở biển Đông chỉ trong hai tuần lễ đã mang lại một hiệu nghiệm chưa từng có: toàn bộ đời sống chính trị và cả tâm thế xã hội Việt Nam bị rối loạn.
“Kỳ án” biểu tình bạo loạn ở Bình Dương có lẽ đã làm cho phần lớn giới chính khách Hà Nội, vốn còn so đo tính toán trong trò chơi đu dây giữa Bắc Kinh và Washington, phải giật mình.
Lần đầu tiên từ sau cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc 1979 đến nay, những người làm công tác tình báo của Việt Nam chắc hẳn phải quá nặng lòng với câu hỏi: làm thế nào và sẽ ra sao khi những dấu hiệu của lực lượng “thân Trung” đã và sẽ nổi lên quyết liệt đến mức sống mái trên mảnh đất thường được xem là “ao làng” của Bắc Kinh?
Phép thử Bắc Kinh cũng đã chứng tỏ được xung lực ứng nghiệm của nó: ngay khi nội trị Việt Nam rối loạn, lời cầu cứu của Hà Nội đã không còn được cộng đồng quốc tế đáp từ như trước đây.
Nếu quả đúng với thâm ý của Trung Nam Hải và đòn nhúng tay hiểm ác của họ, cuộc bạo loạn đốt phá lan rộng dữ dội ở Bình Dương và hàng loạt cái chết của công nhân Trung Quốc ở Hà Tĩnh đã làm cho hình ảnh một Việt Nam “ổn định chính trị và xã hội” trở nên phai tàn rất nhanh trong cảm nhận của thế giới.
Hệ quả kéo theo không tránh khỏi là làn sóng đầu tư nước ngoài vào quốc gia có tỷ lệ thất nghiệp thực tế có thể lên đến 20% này đang có nguy cơ bị chựng lại.
Cùng lúc, làn sóng thoái vốn của nhiều doanh nghiệp Trung Quốc, Đài Loan và vài nước khác lại có chiều hướng xung kích.
Rồi như một hiệu lệnh đồng loạt, nhiều dấu hiệu cho thấy quân đội Trung Quốc đang thầm lặng di chuyển áp sát biên giới phía Bắc. Vài ngày gần đây đã thổi nhẹ loạt đồn đoán về một cuộc chiến tranh có thể nổ ra vào bất cứ thời điểm nào…
Cầu cứu:

 
Phó Tổng thống Mỹ Joe Biden và Thủ tướng TQ Lý Khắc Cường

Phản ứng của phương Tây ra sao? Vào đúng thời điểm kỷ niệm bốn chục năm quan hệ Việt - Pháp, giới ngoại giao Paris vẫn giữ đúng chuẩn mực văn hóa, và vấn đề mà họ có vẻ quan tâm nhất cũng chính là chủ đề “xây dựng văn hóa” mà Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Việt Nam miên man bàn thảo trong hội nghị trung ương 9, cho dù ngay cạnh hội nghị này là mối hiểm họa bất cần văn minh của người anh em “núi liền núi, sông liền sông”.
Trong khi đó, với tính khí lạnh lẽo sương mù vốn có, người Anh càng khó mặn mà với một khu vực mà họ chẳng có ích lợi gì ngoài cú vồ hụt Nam Kỳ vào năm 1946.
Chưa có bất cứ tín hiệu cứu sinh nào từ Tây Âu, Hà Nội chỉ còn trông chờ vào chính sách “xoay trục” sang châu Á - Thái Bình Dương của Hoa Kỳ.
Thế nhưng điều lạ lùng là sau thành công kéo tỷ lệ thất nghiệp từ 9,9% năm 2009 xuống chỉ còn 6,3% vào đầu năm nay, chính quyền Obama lại dường như chọn hướng tiếp tục phát huy thắng lợi này, cũng là để tạo dựng uy tín cho ứng cử viên đảng Dân chủ trong cuộc chạy đua vào Nhà Trắng vài năm tới, thay vì dành mối chú tâm cho một địa chỉ vẫn bị đánh giá “độ tin cậy giữa hai quốc gia là rất thấp”.
Thực tế, chỉ vài tiếng nói của vài nghị sĩ Mỹ không đủ làm cho gió lặng trên biển Đông bạc sóng bởi vòi rồng Trung quốc. Thậm chí đến lúc này, một nghị sĩ Mỹ còn nói thẳng: “Việt Nam không hẳn là bạn của Hoa Kỳ”.
Có lẽ nhiều năm sau, câu nói đó sẽ đi vào lịch sử, nếu so đo với chính sách “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước” và gần 10 “đối tác chiến lược toàn diện” trên danh mục của Hà Nội tới nay, trong đó Bắc Kinh luôn tiến chiếm vị trí số 1.
Tình thế nan nguy chưa từng có như thế chắc chắn đã khiến cho đảng cầm quyền, chính phủ và quốc hội Việt Nam không còn thể thờ ơ với vận mệnh dân tộc và sinh mạng chính trị của họ.
Như một hiệu lệnh đồng loạt, trong khi Quốc hội khai mạc kỳ họp giữa năm bằng một tuyên bố có từ “Trung Quốc” và do đó khác về bản chất với cả hai bài diễn văn khơi mào và kết thúc hội nghị trương ương 9 của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng ít ngày trước đó, Phái đoàn thường trực Việt Nam bên cạnh Liên hiệp quốc cũng bắt đầu ban bố một tuyên cáo về “Trung Quốc đe dọa nghiêm trọng hòa bình”.
Nhưng đáng kể nhất là Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, chính khách cao cấp tỏ ra có tiếng nói “thoát Trung” mạnh mẽ nhất trong hàng ngũ lãnh đạo đảng cho đến giờ.
Nhân chuyến dự Diễn đàn kinh tế thế giới Đông Á ở Philippines, Thủ tướng Dũng đã có vẻ khiến Bắc Kinh phải đôi chút lo ngại về một liên minh quân sự giữa hai quốc gia - nạn nhân của chính sách bành trướng biển khơi và “vùng chủ quyền lãnh thổ di động”.
Dường như là lần đầu tiên, ông Dũng tuyên bố công khai ở nước ngoài về “mối đe dọa của Trung Quốc”.
Nhưng có một chi tiết rất đáng chú ý: nước ngoài đó lại là Philippines - quốc gia vừa đạt được hiệp ước tương trợ quốc phòng với Mỹ trong chuyến công du Manila của ông Barak Obama cuối tháng 4/2014.
Điều an ủi có lẽ là duy nhất cho sự thất vọng của Hà Nội là dù sao cú ra tay đầy tính toán của Trung Quốc tại Biển Đông cũng bắt buộc những người bảo thủ ở Việt Nam phải nhìn lại một quy luật kinh điển: trong hai cái xấu, hãy lựa chọn cái nào đỡ xấu hơn.
'Độ tin cậy rất thấp':

 
EU cho rằng Việt Nam chưa thật sự tiến bộ về nhân quyền
Vốn thường bị lên án là ‘sen đầm quốc tế” cùng chính sách “diễn biến hòa bình”, nhưng ít nhất người Mỹ đã chưa từng biểu lộ ý chí xâm lăng bằng mọi giá như Trung Quốc tại ít nhất khu vực biển Đông.
Thậm chí ngược lại, Mỹ và phương Tây lại đang có trong tay cái bánh mà Việt Nam quá thèm muốn để xử lý khủng hoảng kinh tế - xã hội: Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP) - điều mà Trung Quốc không hề có; hoặc chỉ là cán cân xuất siêu của Đại Hán vào Việt Nam tăng chẵn 100 lần trong hơn 10 năm qua.
Tâm lý người Việt “ngả vào vòng tay phương Tây” cũng bởi thế đang có chiều hướng đột biến so với mối nghi kỵ đậm chất “thù địch” như trước đây.
Rất nhiều khả năng là Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và một phần lớn còn lại, nếu không muốn nói là tất cả, giới lãnh đạo Hà Nội đang rất mong đợi giữa họ với Washington sẽ thiết lập được một bản hiệp ước quân sự nào đó, nhằm ngay lập tức tạo thành “lá chắn biển Đông” trước cơn thủy triều đỏ rực thèm khát của Bắc Kinh.
Philippines lại chính là một bài học quá cận kề đối với Việt Nam. Chỉ ba năm trước, vùng lãnh hải của quốc gia nhỏ bé này còn liên tục bị Trung Quốc đe dọa xâm lấn và chiếm đảo.
Thế nhưng cùng với mối quan hệ khắng khít với Washington và hạm đội 7, lần đầu tiên người Phi đã dám kiện gã khổng lồ Trung Quốc ra tòa án quốc tế. Cũng cho đến nay, hải quân Trung Quốc hoàn toàn chưa dám động binh - hành động chẳng tương xứng chút nào với tuyên bố “nhổ nước bọt” của họ trước đây.
Bài học quốc tế đã sẵn có và kinh nghiệm cũng không thiếu. Nhưng câu hỏi hóc búa đối với Hà Nội là làm thế nào họ chinh phục được “bà con xa” vào lúc này, khi “độ tin cậy giữa hai quốc gia là rất thấp”?
Không chỉ “thấp” về mối quan hệ “đối tác toàn diện” mà chưa hề mang hơi hướng “chiến lược” nào, những gì mà một chính quyền thường hứa hẹn “luôn quan tâm và bảo đảm các quyền con người” lại chẳng thể cảm hóa được Quốc hội và do đó là chính phủ Mỹ.
Ngược hẳn với tuyên bố “Việt Nam đã thực hiện hơn 80% khuyến nghị về nhân quyền của Hội đồng nhân quyền Liên hiệp quốc” của một trong những nhân vật được coi là ứng viên cho chức vụ thủ tướng Việt Nam trong tương lai không xa - Phó thủ tướng kiêm bộ trưởng ngoại giao Phạm Bình Minh, giới chính khách Liên minh châu Âu lại mát mẻ rằng có đến 85% khuyến nghị của các quốc gia đã chưa hề được Hà Nội đụng chạm đến.
Lời trần tình chua cay này được nêu ra trong một cuộc hội thảo về Kiểm điểm định kỳ phổ quát về nhân quyền Việt Nam diễn ra mới đây tại Hà Nội.
Bà con xa?

Minh chứng hùng hồn và gần gũi nhất cho chủ đề nhân quyền Việt Nam lại vừa xảy đến vào ngày Chủ nhật 18/5/2014, khi cuộc biểu tình ôn hòa phản đối Trung Quốc can thiệp vào biển Đông của người dân Hà Nội, Sài Gòn và Vinh đã bị chính quyền các nơi đàn áp thô bạo.
Các hãng tin quốc tế lập tức loan tin “Bắt bớ diễn ra khắp nơi, những người biểu thị lòng yêu nước bị đánh đập dã man…”
Rất tương đồng với ý nghĩa của gần hai chục cuộc đàn áp biểu tình ôn hòa chống Trung Quốc từ giữa năm 2011 đến nay, cuộc đàn áp gần nhất ở Việt Nam đã bộc lộ một sai lầm chính trị đủ lớn của chính quyền: không còn phân biệt nổi đâu là biểu tình quá khích và đâu là biểu tình ôn hòa.
Một sai lầm bị đại đa số nhân dân cho là vong quốc và sẽ góp thêm lòng nhiệt tình vào tình thế mất nước.
Chính sai lầm mang tính hệ thống trên đang và sẽ dồn đẩy giới cầm quyền Việt Nam vào ngõ cụt: Làm thế nào để nếu chiến tranh Trung - Việt nổ ra, mà tương lai này trở nên khá dễ đoán trong 2-3 năm tới, chính quyền Việt Nam có thể ít nhất huy động được dân chúng xuống đường biểu thị “chính nghĩa”, trước khi nói đến một cuộc tổng động viên nào đó, mà không bị người dân quay lưng bởi quá khứ trấn áp biểu tình không khoan nhượng?
Làm thế nào để Hà Nội vớt vát chút niềm tin quốc tế trong bối cảnh họa xâm lăng đang cận kề và mối họa mất nước hoàn toàn không xa xôi?
Và thực tế hơn rất nhiều lần là làm thế nào để Việt Nam có được “lá chắn biển Đông”, nếu chính quyền bảo thủ của quốc gia này vẫn không thể chấp nhận những khái niệm cơ bản nhất về giá trị nhân quyền, như một bài học rất giá trị khác - Miến Điện - đã tích lũy từ ba năm qua và thật ứng với câu tục ngữ Việt Nam “Bà con xa hơn láng giềng gần”?


Bài liên quan:





Mỹ 'kiềm chế' ở nước ngoài nhưng có thể động binh khi đồng minh bị đe dọa.






Đây là diễn văn đầu tiên trong một loạt bài diễn văn về chính sách ngoại giao của ông Obama
Tổng thống Barack Obama nói Hoa Kỳ cần 'kiềm chế' ở nước ngoài nhưng khẳng định Mỹ có thể động binh trong trường hợp an ninh của đồng minh bị đe dọa.

Ông Obama đưa ra thông điệp này trong bài phát biểu tại lễ tốt nghiệp của Học viện Quân sự Hoa Kỳ ở West Point, New York, hôm 28/5.

"Trước hết, tôi muốn nhắc lại một nguyên tắc mà tôi đã đặt ra từ khi nhậm chức tổng thống - Hoa Kỳ sẽ sử dụng quân đội, đơn phương nếu cần thiết, nếu cần cho lợi ích cốt lõi của chúng ta - trong trường hợp người dân chúng ta bị đe dọa, nguồn sống chúng ta gặp nguy hiểm hay an ninh của các nước đồng minh bị thách thức," ông cho biết.
"Trong những trường hợp này, chúng ta vẫn cần phải cân nhắc kỹ lưỡng rằng hành động của chúng ta có cân xứng, hiệu quả và chính đáng hay không. Ý kiến của quốc tế rất quan trọng."
Nhắc tới căng thẳng hiện nay ở Ukraine và Biển Đông, ông Obama nói:
"Những hành động hung hăng tự tung tự tác ở nam Ukraine, trên Biển Đông hay bất cứ đâu trên thế giới, cuối cùng vẫn sẽ ảnh hưởng đến các đồng minh của chúng ta và có thể khiến chúng ta phải gửi quân vào."

Thông điệp của ông Obama được đưa ra để đáp lại những lời chỉ trích chính sách đối ngoại của ông 'yếu ớt''

'Hành động tập thể'

Ông Obama nói Mỹ vẫn sẽ lãnh đạo nhưng cần "tránh những sai lầm đắt giá" trong quá khứ và cho biết chính sách ngoại giao mới của Hoa Kỳ sẽ dựa trên "hành động mang tính tập thể" với đồng minh.
"Những người hoài nghi thường xem nhẹ tính hiệu quả của hành động đa phương. Đối với họ, giải quyết vấn đề thông qua các định chế quốc tế, hay tôn trọng luật pháp quốc tế là biểu hiện của sự yếu ớt. Tôi nghĩ là họ đã sai," ông nói.
Tổng thống Obama cũng công bố khoản ngân sách 5 tỷ đô la để chống khủng bố trên toàn cầu và hứa Hoa Kỳ "sẽ không tạo ra nhiều kẻ thù hơn số mà chúng ta loại khỏi chiến trường."
Việc quân đội Hoa Kỳ chấm dứt sứ mệnh tại Afghanistan vào cuối năm nay sẽ giải phóng các nguồn tài chính để đối phó với những đe dọa ở những nơi khác, chẳng hạn "quỹ hợp tác chống khủng bố" trị giá 5 tỷ đôla để giúp các nước chống chủ nghĩa cực đoan.
Khoản tiền này sẽ được sử dụng cho việc huấn luyện lực lượng an ninh tại Yemen, hỗ trợ liên minh đa quốc gia đang gìn giữ hòa bình ở Somalia, hợp tác với các đồng minh châu Âu để huấn luyện lực lượng an ninh hoạt động hiệu quả ở Libya và trợ giúp chiến dịch của Pháp ở Mali, ông nói thêm.
Đề cập đến cuộc nội chiến ở Syria, ông hứa sẽ "tăng cường hỗ trợ" cho phe đối lập dù không nói cụ thể.

Các sinh viên của Học viện Quân sự Hoa Kỳ đón chào ông Obama

Chính sách ngoại giao mới

Bài phát biểu của ông Obama được cho là nhằm định hình lại chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ, trong đó vẫn sử dụng quân đội khi cần thiết nhưng chỉ khi có sự đồng thuận của quốc tế.
"Chúng ta cần mở rộng các công cụ của mình để bao gồm các các biện pháp ngoại giao và phát triển, trừng phạt và cô lập, dùng đến luật pháp quốc tế - và nếu chính đáng, cần thiết và hiệu quả thì sử dụng hành động quân sự đa phương."
"Chúng ta phải làm vậy vì những hành động mang tính tập thể trong những trường hợp này nhiều khả năng sẽ thành công hơn, có thể duy trì dễ hơn, và khó dẫn tới những sai lầm đắt giá."
Đây là bài diễn văn đầu tiên trong hàng loạt phát biểu của Tổng thống Mỹ về chính sách ngoại giao trong 10 ngày tới để đáp lại các chỉ trích rằng chính sách đối ngoại của Mỹ là 'yếu ớt'.
Hôm 28/5, một nhân vật chủ chốt của Đảng Cộng hòa trong Ủy ban Đối ngoại của Thượng viện Mỹ nói sự "thiếu quyết đoán và thận trọng quá mức" của ông Obama "khiến người ta phải lo lắng".
"Tôi không nói là chúng ta phải làm cảnh sát của thế giới, nhưng tôi cho rằng việc chúng ta không lãnh đạo đang tạo ra một khoảng trống, và chính trong khoảng trống đấy nhiều vấn đề đã nảy sinh," Thượng Nghĩ sỹ Bob Corker nói.
Bình luận về bài diễn văn then chốt của ông Obama ở West Point, một số báo tiếng Anh so sánh 'học thuyết ngoại giao' của ông với Chủ thuyết Nixon trong thập niên 1970.
Quan điểm 'giúp đồng minh nhưng không đánh thay' của Tổng thống Richard Nixon khi đó đã khiến Hoa Kỳ tăng cường hỗ trợ cho các chính quyền ở Tehran và Sài Gòn nhưng đồng thời rút quân tác chiến của Mỹ ra.